Phóng sự

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên'

Thứ Tư, 18/06/2025 11:42:41 +07:00

(VTC News) - Tây Nguyên vào những ngày giữa mùa hoa cà phê phủ trắng nương rẫy, chúng tôi tìm về buôn làng để được nghe các già làng kể câu chuyện xưa cũ.

Phần 2: Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại

Thứ Tư, 18/06/2025 11:42:41 +07:00

Phần 3: Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San

Thứ Tư, 18/06/2025 11:42:41 +07:00

Phần 4: Cái chết của con voi nhà cuối cùng

Thứ Tư, 18/06/2025 11:42:41 +07:00

Phần 5: Dân làng bảo vệ rừng thiêng

Thứ Tư, 18/06/2025 11:42:41 +07:00
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 1
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 2

Nghe các già làng kể những câu chuyện xưa cũ về đại ngàn.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 3
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 4

"Người già nhớ chuyện cũ" là câu thành ngữ của người Gia Rai. "Thanh niên thích leo núi" là câu thành ngữ của người Ba Na. Đối với già làng các dân tộc Tây Nguyên, rừng là tất cả. Trong ký ức của nhiều già làng K’Ho, Chu Ru, Ê Ðê…còn vẹn nguyên hình ảnh cánh rừng bất tận với những con đường chỉ "đủ bàn chân", người sau dẫm lên dấu chân người đi trước...

Xã Đạ Chais (Lạc Dương, Lâm Đồng) nằm ở độ cao 1.500 m so với mặt biển nên không gian ở đây mát lạnh. Khi nắng bắt đầu lên, sương sớm vẫn bảng lảng trên những ngọn núi, nắng len lén trườn qua kẽ lá, rót xuống từng sợi lung linh giữa làn sương mờ tỏ.

Đạ Chais là xã có diện tích lớn nhất huyện Lạc Dương với trên 34.000 ha, trong đó đất lâm nghiệp gần 32.000ha, giáp với các xã của 3 tỉnh Khánh Hòa, Đắk Lắk, Ninh Thuận. Xã nằm trong vùng lõi của Vườn Quốc gia Bidoup - Núi Bà, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Langbiang và trên lâm phần rừng đầu nguồn Đa Nhim. Hiện Đạ Chais có tỷ lệ độ che phủ rừng tới 93%, cao nhất huyện Lạc Dương (trung bình đạt 85%).

Buôn Ðưng K’si của đồng bào K’Ho Cil nằm ở chân núi Bidoup chỉ còn vài chục người già, nhưng có đến cả ngàn sự khắc khoải đến tê tái của lớp người đi trước với rừng. Thật lạ, sống cạnh khu rừng có nhiều kỳ hoa dị thảo mà vẫn thấy thiếu rừng.

Bên hiên nhà vừa mới cất chưa lâu, già Bon Tô Sa Nga phà khói thuốc, nhìn về phía núi.

Trải qua gần 70 mùa rẫy, đôi chân già Bon Tô Sa Nga đầy những vết chai, duy chỉ đôi mắt và nụ cười vẫn như trẻ thơ, hồn hậu và cởi mở. Tâm tính già phóng khoáng như những ngọn núi, bí ẩn và kiêu hãnh tựa sâu thẳm đại ngàn..

Cạnh bếp lửa được đốt lên trong cái lạnh căm căm của thung lũng, đôi mắt già Bon Tô Sa Nga đượm vẻ buồn với ánh nhìn xa xăm, có điều gì khắc khoải, day dứt, thôi thúc, ám ảnh.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 5
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 6

Vẫn biết rằng theo quy luật, khi con người đông hơn rừng núi sẽ thu hẹp lại, nhưng già vẫn cảm thấy buồn và nhớ rừng của ngày xưa…

Già Bon Tô Sa Nga bảo, mấy năm gần đây, huyện Lạc Dương trở thành điểm nóng về phá rừng. Ở xã Đạ Chais hồi giữa năm 2022 cũng xảy ra vụ phá rừng nghiêm trọng, hơn 50 cây thông ba lá đã bị cưa hạ trên tích hơn 3.000 m2 rừng đặc dụng bị phá.

Xưa, nói là xưa thôi nhưng cách nay vài chục năm chứ mấy, khoảng những năm 1980 trở về trước, cả huyện Lạc Dương vẫn còn rất hoang sơ, toàn rừng là rừng.

Xưa, không phải chỉ vào khu vực rừng quốc gia mới thấy những cây rừng quý hiếm, mà bước ra cửa đã chạm rừng, trùng điệp rừng, thăm thẳm rừng thành đại ngàn hùng vĩ, ngay cạnh nhà là những cây rừng cổ thụ 2 - 3 người ôm mới hết một vòng cây.

Cây pơ mu, cây gió bầu (cho trầm hương, kỳ nam), quế, hồi, cung nữ Langbiang vẫn còn nhiều. Rừng bao quanh đường, đường xuyên trong rừng. Buôn nào xa rừng nhất thì đi cách nhà mấy đoạn “quăng dao" là đã vào tới rừng.

Vào mùa khô, những người đàn ông khỏe mạnh trong gia đình cùng nhau gùi sản vật của rừng xuống miền xuôi để đổi muối. Ngày đó, vào rừng không cẩn thận là lạc như chơi. Có những khoảng rừng rậm rạp tới mức gần như không nhìn thấy bầu trời, người đi rừng cần tìm nguồn nước lắng nghe tiếng chim chơ-rao ở đâu thì lần đến đó, thế nào cũng gặp nước.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 7
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 8

Rừng ngày xưa không “sạch sẽ” như hiện tại mà đầy những cây tạp, thực bì, vắt, muỗi... Đi trong rừng, ngước lên những thân cây cao vút bám đầy rêu từ gốc tới ngọn, những cây dây leo nhỏ buông thõng đu đưa như đan mành. Cây rừng cứ quấn quýt, đan vào nhau, tựa vào nhau, tầng tầng lớp lớp. Những chú vượn đen má vàng, khướu đầu đen lấp ló, chim ríu rít kêu.

Rừng cho buôn làng cả thức ăn và thức uống. Đi rừng không sợ đói cái bụng, quả rừng chỗ nào cũng có, khát thì thân cây vặn ra lấy nước. Gặp một tổ ong thì đủ không đói cả mấy ngày. Thú rừng thấy người không chạy, bầy nai xuống uống nước ven suối ngay cạnh người.

Đứng trên buôn này gọi người buôn kia cách nhau cả ngọn núi mà tiếng hú luồn lách qua những cây rừng, vượt qua năm suối bốn đèo rồi cũng đến tai nhau. Khi muông thú trong rừng gọi đàn cả bốn tỉnh đều nghe.

Để sinh tồn và phát triển giữa thiên nhiên, núi rừng, người K’Ho dần hình thành những cách ứng xử, phong tục, tạo nên tính chất đa thần trong đời sống tinh thần của cộng đồng K’Ho.

Họ tin rằng trong cuộc sống đang diễn ra thường ngày vẫn luôn có một lực lượng siêu nhiên, các đấng bề trên tối cao tồn tại và dõi theo từ rừng xanh sâu thẳm, những đỉnh núi cao hùng vĩ, đến những hang động, khe suối, con sông… Người K’Ho vẫn gọi các đấng siêu nhiên như thần thánh và ma quỷ với cái tên đầy tôn kính và sùng bái là Yàng và Cà.

Với quan niệm vạn vật hữu linh, tín ngưỡng đa thần, bà con nơi đây tin rằng, núi rừng thiêng chính là vị thần lớn cai trị nhiều vị thần tốt bụng còn lại và luôn sẵn lòng che chở cho buôn làng.

Vì vậy, bảo vệ rừng với đồng bào K’Ho vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ thiêng liêng. Giữ rừng để bảo vệ môi trường sống, nguồn nước tưới, không ai được xâm phạm khi chưa được phép của thần rừng, dù là chỉ hái một ngọn măng, chặt một cành cây, bắt một con thú...

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 9
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 10

Người K’Ho xưa bảo nhau chỉ mượn đất của rừng vừa đủ cái ăn, không được ăn hết lộc của Yàng. Có nghĩa là một mảnh rừng chỉ chặt cây nhỏ, để lại cây lớn cho thần lúa ở trên ngọn, còn mình núp dưới tán cây nghỉ mát. Sau vài mùa rẫy dân làng chuyển đi nơi mới rồi chục năm sau trở lại nơi cũ tái khai phá canh tác, làm như thế cây rừng vẫn còn, thần lúa vẫn còn, con cháu cứ thế tồn tại.

Tay run run gẩy than cho bếp lửa thêm hồng, giọng già Bon Tô Sa Nga chùng xuống, trong ánh sáng của bếp củi lép bép cháy, dáng già như một sơn nhân giữa rừng già hắt bóng lên bức tường…

Những mạch cảm xúc đứt quãng, những câu chuyện gần như vỡ vụn dần trong trí nhớ của cái tuổi đã ở bên kia con dốc cuộc đời.

Ngày nay đường lớn đã mở, miền ngược và miền xuôi đã thông thương. Những chỗ trước là rừng già, tìm được lối đi rộng đã là khó, bây giờ trống rộng thênh thang, nhìn về phía nào cũng không còn vướng mắt.

Ánh nắng trên đầu cũng dần gay gắt hơn, mưa gió dữ dội hơn, rồi những đám rẫy mọc lên, lại nhiều hơn những dòng người đổ vào vùng đất mới. Màu xanh dần nhường chỗ cho màu người.

Những tiếng máy cưa, tiếng cây rừng đổ rạp xuống rền rã núi rừng ngày này qua tháng khác ám ảnh trong tâm trí những người già dưới chân núi Bidoup. Những năm gần đây, xuất hiện những nhóm người từ nơi khác đến vô tư cưa hạ thông.

Trên đỉnh núi Bà, hàng trăm cây thông cổ thụ bị cưa hạ, đốt cháy đen nằm ngổn ngang. Ở những xã lân cận, rừng thông ba lá còn bị ken gốc, khoan lỗ rồi đổ hóa chất làm cây chết... Người ta đến bao chiếm đất rừng để trồng cây ăn trái hoặc bán đất rừng.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 11
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 12

Cuối năm 2012, gần 20 người từ nơi khác đến đem theo cưa máy phá rừng pơ mu với quy mô lớn tại vườn quốc gia Bidoup Núi Bà. Họ chặt hạ không thương tiếc hàng chục cây pơ mu có tuổi thọ hàng trăm năm, đường kính lớn hơn 1m

Sau khi rừng bị tàn phá, người ta đưa phương tiện cơ giới đến đào bới, vận chuyển hàng ngàn m3 đất ra khỏi hiện trường… Chim muông xao xác, thú rừng chạy xa. Rồi dần dần mầm cao su, tiêu, cà phê mọc lên thẳng hàng ngang, dọc thay cho những tán rừng.

Những mảng rừng bị thiêu trụi để làm rẫy, phân lô đem bán ngày càng nhiều. Đứng từ chân núi Langbiang nhìn về các phía sẽ thấy giữa màu xanh sườn núi là những khoảng lớn màu nâu sậm nham nhở.

Rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn cứ bị đẩy lùi vào sâu, sâu nữa - nơi mà hầu như không có nhà cửa.

Cách nhà già Bon Tô Sa Nga “một con dốc”, già Cil Ju Ha Giản 65 tuổi, ở thôn Liêng Bông, xã Đa Nhim, huyện Lạc Dương gần 20 năm qua vẫn được nhiều người ở vùng rừng Bidoup - Núi Bà và rừng phòng hộ Đa Nhim nhắc đến như một minh chứng cho những người K’Ho Cil yêu rừng.

Dưới ánh nắng le lói của ngày mới, già Ha Giản lặng lẽ chuẩn bị vật dùng cần thiết để đi thăm rừng. Trong ánh đèn điện đỏ quạch hắt ra từ hiên nhà, bóng Ha Giản in trên nền đất cô độc mà vững chãi như hình ảnh những đứa con của rừng trong các câu chuyện người Cil đậm chất sử thi.

Già Cil Ju Ha Giản bảo, bây giờ đời sống khá hơn, nhà xây nền gạch, ra đường đi bằng xe máy, điện thoại di động trong tay nhưng vẫn thấy thiếu điều gì đó không giải thích nổi, có lẽ là rừng.

Bà con sống không có rừng, cồng chiêng khua lên không có rừng, Kơmbuat (kèn ống bầu), Kơrla (đàn ống tre), Sơgơr (trống) reo lên không có rừng tự nhiên, hội hè trở thành một điều gì đó thiếu vắng.

Già Bon Tô Sa Nga, già Ha Giản và người già muốn đi thăm rừng, thăm con thú sẽ băng qua con đường dài sau nhà, lên những dãy núi gần nương rẫy.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 13
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 14

Chính vì tình yêu với rừng nên già Cil Ju Ha Giản đã 30 năm làm nhiệm vụ tuần tra giữ rừng và tổ chức những đội giữ rừng chuyên nghiệp. Già uy tín như một già làng và giỏi đi rừng như con thú đầu đàn nên được đơn vị quản lý rừng Đa Nhim nhờ tổ chức đội tuần tra rừng với hơn 40 người.

Già Giản có thể thuộc làu làu những vị trí trong rừng có cây cổ thụ quý hiếm. Ông được các cán bộ trạm bảo vệ rừng Đa Nhim tin tưởng như "đôi tay tin vào đôi chân" - cách người Cil nói về niềm tin tuyệt đối.

Nhờ có già Ha Giản nên lực lượng kiểm lâm ở Đa Nhim đã đến được nơi "lâm tặc" hạ trại cùng cưa máy - một khoảnh rừng có hàng chục cây bạch tùng, du san, toàn cây có tên trong sách đỏ.

Già Ha Giản yêu rừng một cách lạ thường, ông nhận đi giữ rừng một cách tự nguyện. Già Giản nói "tổ tiên người Cil ở giữa cánh rừng này đã từ ngàn năm. Người Cil để mất rừng là mất danh dự".

Già kể, người Cil sống ở xã Đa Nhim bây giờ trước kia ở làng Dưng Iar Diêng, một ngôi làng sâu bên trong vùng lõi của Vườn Quốc gia Bidoup - Núi Bà. Làng cũ không tiện để có một cuộc sống tiện nghi, phát triển nên người Cil được cấp đất ngoài xã Đa Nhim. Với người Cil, được định cư - định canh ở cạnh lãnh địa của tổ tiên xưa kia khiến họ rất cảm kích.

Người Cil yêu rừng, vì vậy, những câu chuyện người Cil ở Đa Nhim giúp ban quản lý Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà và ban quản lý rừng phòng hộ Đa Nhim giữ rừng nhiều như những ngày tháng mà họ đã sống cùng rừng. Và sự nhiệt tình chưa hề giảm đi.

“Rừng còn thì con chim, con thú mới có chỗ ở, con cháu mình có nơi bao bọc”, già Ha Giản nói chắc nịch.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 15
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 16

Sinh ra và lớn lên trong sự che chở của rừng già ở bon (buôn) Pu Prâng (xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, Đắk Nông) rồi theo vợ về sinh sống tại buôn Tul A (xã Ea Wer, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk), cũng sống cạnh những cánh rừng nên khi già Điểu Klung (82 tuổi) nhìn những cánh rừng nơi đây đang ngày một thu hẹp dần, ông chẳng thể nào giấu được nỗi buồn.

“Nhớ” là điệp từ trong từng câu chuyện kể của già. Khi mặt trời khuất dần sau ngọn núi, miền ký ức hoang hoải về đại ngàn lại sống dậy trong ông. Và không chỉ nhớ, già đã rơi nước mắt vì thương những cánh rừng đã từng chịu ngàn vạn  “vết thương”.

Già bảo, người M’Nông có niềm tin vào tín ngưỡng đa thần. Họ bảo nhau rằng, thần linh trú ngụ khắp nơi: Thần đất phù hộ cho gia đình, thần đá bếp giữ lửa ấm, nấu ăn, thần rừng nuôi chim thú cung cấp lương thực cho con người. Thần núi,  thần suối, thác nước giữ nguồn nước cho bon làng, thần lúa và thần hoa màu cho vụ mùa bội thu, cây cối tươi tốt, thần sét ở trên trời trừng phạt kẻ làm điều xấu.

Luật tục M’nông có những quy định chặt chẽ về bảo vệ rừng, khai thác đất rừng, đất rẫy, tập tục làm rẫy, tục lệ trồng trỉa, các hoạt động săn bắt thú rừng…

 “Đốt lửa trong cỏ khô, lửa sẽ đốt cháy buôn làng, rẫy lúa, rừng khô, thú vật, tài sản của mọi người. Đốn cây đừng cho ngã ngược, chặt cây đừng cho dập cành. Luật tục cấm mọi người không được làm gì ảnh hưởng đến sự phát triển của rừng.

Đối với hồ nước sinh hoạt của buôn làng thì cấm mọi người làm dơ bẩn nguồn nước. Nếu người nào vi phạm những điều cấm trên thì tuỳ theo tính chất, hoàn cảnh kinh tế giàu nghèo sẽ bị phạt: trâu, bò, heo, gà và rượu để cúng Yàng xin tha tội”.

Luật tục M’Nông cũng quy định, khu rừng sâu là của tổ tiên, của con cháu, của ông bà, của chúng ta. Do đó, nếu ai phá rừng sẽ bị lên án bằng cách: “Làm nhà đừng dùng cây nữa; làm chòi đừng đừng dùng cây nữa; làm rẫy không phát rừng nữa; khi thiếu đói đừng đào củ nữa…”.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 17
Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 18

Rừng Ea Nhôn kéo dài năm, bảy chục cây số, tít tắp đến tận Bản Đôn, Ea Súp. Rừng Cư M’gar, Buôn Gia Wầm rậm rạp, đầy gỗ quý như cẩm lai, cà te, giáng hương, cam xe, cà chít, sao, dổi… ở đấy còn cơ man là nai, hoẵng, lợn rừng…

Khu vực dọc theo triền núi Chư Yang Sin từ Hòa Sơn, Khuê Ngọc Điền, Hòa Lễ, về ba xã Yang Mao, Cư Pui, Cư Drăm là cả một vùng rừng tự nhiên với nhiều tầng cây từ sao, chò, bằng lăng, cầy, tre, le và dưới cùng là cỏ tranh và bụi dây leo. Cứ mỗi sáng từng đàn chim bồ chao (Chơ rao), chim dồn dột, áo già, chim két… từ những rừng le, đồng cỏ lau sậy kêu vang trời.

Giờ đây, tuy đã phóng tầm mắt thật xa, rất xa, nhưng hình ảnh “núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ” trong ký ức ngày nào không sao hiển hiện!

Bây giờ từ Buôn Ky đi Bản Đôn chỉ thấy nhà san sát nhà, cà phê san sát cà phê. Cả vùng rừng Cư M’gar giờ chỉ còn sót lại vài ba cây kơ nia đứng trơ trọi như để chứng giám cho một thời nơi đây đã có đại ngàn.

Rừng đã dần lùi xa, nhưng những người già trên mảnh đất Tây Nguyên không ai có thể quên mình đã lớn lên trong sự chở che bao bọc của rừng. Nỗi nhớ luôn canh cánh, khi chiều về càng cồn cào, thôi thúc. Một ngày không nghe tiếng suối róc rách, tiếng chim lảnh lót, tiếng bước chân thú rừng giẫm trên cành lá mục là quay quắt nhớ.

Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên' - 19

Video: Bóng cây kơ nia cô đơn

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 1
Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 2

Buổi sáng em lên rẫy/ Thấy bóng cây kơ nia/ Bóng ngả che ngực em/ Về nhớ anh không ngủ/ Buổi chiều mẹ lên rẫy/ Thấy bóng cây kơ nia/ Bóng tròn che lưng mẹ/ Về nhớ anh mẹ khóc” – hình ảnh kơ nia trong trong bài thơ Bóng cây kơ nia của Ngọc Anh, được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ thành nhạc phẩm bất hủ, đã thôi thúc chúng tôi lặn lội đi tìm.

Cách TP Buôn Ma Thuột tầm 60 km, Chư Yang Sin - đỉnh núi nằm trải dài giữa 2 huyện Krông Bông và Lắk, tỉnh Đắk Lắk, được ví von là nóc nhà của đại ngàn. Sau hành trình dài ngày lùng sục khắp miền sơn cước, rốt cuộc chúng tôi cũng thỏa nỗi mong chờ khi được “mục sở thị” cây kơ nia hiếm hoi còn sót lại ở buôn Paia, xã Đắk Phơi, huyện Lắk.

Đồng bào Ê Đê trong vùng vẫn thường gọi cây kơ nia phủ bóng bên bờ suối Đá (con suối như ranh giới chia cắt buôn Paia và vườn quốc gia Chư Yang Sin) bằng cái tên kơ nia cô đơn.

Già làng Y Hai Liêng Hót (67 tuổi) kể rằng, khi xưa buôn làng nằm trải dài ven suối Đá, kơ nia mọc san sát bên triền đồi, in bóng trên từng cung đường lớn nhỏ trong buôn. Cũng không ngoa khi nói rằng, nhìn đâu cũng thấy bóng kơ nia.

“Thuở ấy, ban ngày đi làm rẫy thấm mệt, bà con tìm đến các gốc kơ nia tựa lưng nghỉ ngơi, nhặt hạt ăn lót dạ. Buổi tối, dân làng cũng thường quây quần bên các cây kơ nia cổ thụ hát khan. Cây kơ nia trở thành hình ảnh ăn sâu vào trong tiềm thức của cư dân bản địa, từ người già cho tới con trẻ”, già Hót nói.

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 3
Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 4

Theo dòng chảy của thời gian cùng những cuộc di dân từ nơi khác đến, cây kơ nia ở Paia bị “tàn sát” không thương tiếc. Người ta đốn hạ kơ nia để lấy đất phục vụ canh tác, sản xuất. Dần dà, bóng cây kơ nia cũng thưa dần qua năm tháng.

“Phá mãi rồi cũng hết, hiện tại cả buôn chỉ còn đúng cây kơ nia gần 50 năm tuổi này. Hai năm trước, một nhóm người từ nơi khác đến buôn, lợi dụng đêm khuya mang rìu tới với ý định chặt hạ cây. May sao, tôi phát hiện và ngăn chặn, giờ dưới gốc cây vẫn còn dấu rìu. Mới năm ngoái, có người nài nỉ tôi bán cây kơ nia với giá 50 triệu đồng nhưng tôi nhất quyết từ chối. Tôi quan niệm, kơ nia là cây của Yàng (ông trời), nơi thần linh trú ngụ, đặc biệt là cây cổ thụ, nên tôi phải giữ lại bằng mọi giá”, già Hót nói.

Cứ vào dịp đầu năm mới, dưới gốc cây kơ nia ba người ôm không xuể, già Hót cùng đồng bào trong buôn thành tâm cúng kiếng, cầu nguyện cho cây được trường tồn, quanh năm xanh tốt.

Rời buôn Paia, chúng tôi tiếp tục lặn lội hàng trăm cây số để tìm về thôn An Phong, xã Phú An, huyện Đắk Pơ, tỉnh Gia Lai. Sớm mai, ngôi làng bình yên đắm chìm giữa màu xanh bạt ngàn núi đồi cà phê, đồng lúa. Từ xa xa là những tán cây cổ thụ vươn mình tỏa bóng mát cả một vùng rộng lớn.

Đưa khách tham quan đình An Mỹ, thôn An Phong, ông Văn Thanh Cần (66 tuổi) – thuộc ban quản lý đình An Mỹ cho biết, tương truyền, để ghi nhớ công đức to lớn của vị anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ, người dân đã đóng góp công sức, vật liệu xây dựng đình An Mỹ. Ngôi đình dựng trên gò đất có nhiều cây to. Cách gò khoảng 500m tương truyền là nơi nghĩa quân Tây Sơn dừng chân, kiểm đếm quân số trước khi tiến xuống đồng bằng.

Trước đây, xung quanh đình là rừng cây rậm rạp với phần lớn cây kơ nia. Loài cây này mang nhiều ý nghĩa đối với đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và bà con vùng Tây Sơn thượng đạo nói riêng.

Các cụ trong ban nghi lễ đình An Mỹ kể: Khi ba anh em nhà Tây Sơn xuất quân tiến xuống đồng bằng, đến gần đèo An Khê, bất ngờ có một con rắn đen như gỗ mun, to như cột đình ra nằm chặn giữa đường. Trong hàng ngũ tướng lĩnh và nghĩa quân có người cho rằng, đây là điềm gở, đề nghị thu quân. Nhưng Nguyễn Huệ đã tiến lên, rút kiếm chém đứt đôi con rắn, lấy máu tế cờ và hòa rượu cho binh sĩ uống. Sau đó, Nguyễn Huệ cho quân trèo lên cây ké phất cờ và cây kơ nia gần đó nổi trống làm hiệu tiến binh. Từ lần xuất quân này, nghĩa quân Tây Sơn lập được nhiều chiến công vang dội, hiển hách như Rạch Gầm - Xoài Mút, Ngọc Hồi - Đống Đa.

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 5
Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 6

Cây kơ nia thường mọc rải rác, đơn lẻ, có sức sống mãnh liệt. Cũng chính vì thế, dân gian có nhiều giai thoại về loại cây này. Chuyện kể rằng, ngày xưa, ở một làng nọ có cặp vợ chồng nghèo, hiền lành, mãi chưa sinh con đẻ cái. Ngày ngày cả hai đến bên sườn núi hiến tế, cầu xin thần linh ban cho một đứa con. Sau đó, họ hạ sinh được một đứa con gái và đặt tên là Kơ Nia.

Tuy nhiên, do gia đình có một khoản nợ lớn không trả được, ngay khi bố mẹ qua đời, Kơ Nia bị người ta bắt về làm người ở để trừ nợ. Công việc nương rẫy quá khổ cực khiến sức khỏe của cô ngày càng giảm sút. Rồi một ngày, Kơ Nia kiệt sức, nằm giữa mảnh đất cằn cỗi đầy gió rồi không bao giờ tỉnh lại nữa. Từ nấm mộ giữa rẫy hoang ấy mọc lên một loại cây thẳng tắp sừng sững, vươn cao, rợp mát giữa trời xanh.

Theo ông Cần, thân cây kơ nia trong đình An Mỹ cao hơn 17m, phần gốc phải bốn người lớn đan tay vào nhau mới ôm xuể, tán cây quanh năm phủ bóng mát lên cả khu vực rộng 400m2.

“Cây kơ nia là báu vật của buôn làng, gắn với lịch sử phát triển, đời sống văn hóa của đồng bào Tây Nguyên. Trong quá trình bảo vệ đình An Mỹ, chúng tôi cũng đã tuyên truyền cho bà con không được xâm phạm vào cây kơ nia vì đây là biểu tượng tâm linh của buôn làng”, ông Văn Thanh Cần nói.

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 7
Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 8

Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên tâm niệm, kơ nia là cây thần, cây thiêng, cây tâm linh, cây biểu tượng cho tinh thần bất khuất. Họ cho rằng cây luôn có thần linh trú ngụ nên không bao giờ chặt đốn. Nhưng thời gian qua, làn sóng di cư kéo theo việc lập buôn làng mới, “xí” đất dựng nhà, canh tác  khiến bóng cây kơ nia dần đi vào dĩ vãng.

Ông Cần nói ngày xưa, vùng này nhiều cây kơ nia lắm. Kơ nia thấp thoáng xa xa, cao hẳn lên trên tán rừng, đó là điểm đánh dấu buôn làng. Chỉ cần nhìn thấy cây kơ nia là biết ở đó có làng.

“Bây giờ, cây kơ nia còn ít quá”, ông Cần nói.

Theo ông Cần, nguyên nhân cây kơ nia ngày một vắng bóng là do người ta chặt hạ lấy gỗ và vấn nạn phá rừng làm nương rẫy. Trong khi đó, do đặc điểm rễ cọc ăn sâu vào lòng đất nên kơ nia rất khó di thực (dẫn giống, phát triển một loài cây nào đó từ bản địa đến khu vực trồng trọt mới). Ngoài ra, vỏ hạt kơ nia rất dày nên không hề dễ ươm.

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 9
Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 10

Ông Đinh Một - Giám đốc Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk kể, hồi năm 2006, trong đợt công tác khảo sát, điều tra, thống kê, cán bộ bảo tàng tỉnh dò tìm cây kơ nia, song kết quả cho thấy một thực tế rất buồn là cây con kơ nia rất hiếm. Dẫu dưới những gốc cây kơ nia cổ thụ hiếm hoi có rất nhiều hạt, quả già có, non có, cũ có, mới có... nhưng không hề có cây con.

“Chúng tôi nhặt rất nhiều hạt khô, tươi và trái đem về nhờ các anh trong đội chăm sóc cây cảnh, hoa cỏ tại Bảo tàng Đắk Lắk ươm. Tuy nhiên, sau nhiều tháng đợi chờ, chẳng có cây con nào được ươm thành công. Hạt tươi lẫn khô không nảy mầm”, ông Một nói.

Trao đổi với chúng tôi, Phó Chủ tịch UBND thành phố Buôn Ma Thuột Trần Đức Nhật cho biết, trong  năm 2022, huyện Lắk đã nhân giống và gửi tặng khoảng 400 cây kơ nia. Đợt tiếp nhận gần nhất có 3 cây kơ nia lớn và 200 cây nhỏ. Thành phố đã trồng 2 cây tại Quảng trường

10/3, một cây tại Hoa viên Ngô Thì Nhậm, phường Tân An. 200 cây nhỏ sẽ được chăm sóc tại vườn ươm để sử dụng khi thành phố có nhu cầu.

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 11
Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 12

Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại - 13

 

Mọi thứ ở Tây Nguyên, từ con người đến văn hóa đều sinh ra từ rừng, vĩ đại nhờ rừng, vững chãi và tồn tại cũng nhờ rừng. Tiếng khan, tiếng cồng, tiếng chiêng chỉ thật sự thiêng liêng, trở thành văn hóa khi liên hệ với rừng. Bởi, chúng sinh ra từ rừng...

Tây Nguyên là miền đất huyền thoại, là nơi cư trú của người Ba Na, Ê Đê, M’Nông, Gia Rai… Đây cũng là vùng đất có nhiều giá trị lịch sử, văn hóa tinh thần vô giá, vùng đất của những điệu cồng chiêng, của rượu cần, đàn T’rưng…

Nếu hỏi Tây Nguyên có gì đặc biệt nhất, có thể sẽ nhận được nhiều câu trả lời khác nhau, nhưng kho báu anh hùng ca - sử thi chắc chắn là câu trả lời thỏa đáng. Ở Tây Nguyên, nhiều dân tộc có sử thi anh hùng. Theo ngôn ngữ của mỗi dân tộc, sử thi được gọi với tên khác nhau.

Video: Sử thi Tây Nguyên có còn âm vang?

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 1
Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 2

Người Ê Đê gọi sử thi là Khan, người M’Nông gọi là Ót N’drông, người Ba Na gọi là H’amon, người Xơ Đăng gọi là Hơmoan, người Chăm gọi là Akhan, người Gia Rai gọi là Akhar Jur Car…

Dịp lễ hội mở ra, người Tây Nguyên nhảy múa quanh ngọn lửa, cùng vít cần rượu để cùng nhau thắt những mối dây cộng cảm và kết nối cộng đồng, làm nên “phổ văn hóa rừng” vừa hùng tráng, vừa lãng mạn và bay bổng.

Theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, tại khu vực Tây Nguyên, các nhà văn hóa đã sưu tầm được hơn 800 sử thi, thuộc các dân tộc Ê Đê, Gia Rai, M’Nông, Ba Na, Chăm H’roi, Stiêng, Xê Đăng, K’Ho, Mạ.

Số chưa kịp ghi chép, dự kiến cũng có tới trăm bộ. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá, sử thi Tây Nguyên là “một kho tàng văn học dân gian khổng lồ, một kho lịch sử - văn hóa vô giá có thể so sánh với kho thần thoại Hy Lạp nổi tiếng”.

Nhưng theo ông Lại Đức Đại - Phó giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Đắk Lắk, những “kho báu sống” về sử thi từ chỗ vài trăm nay chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, nhiều người già về với “đất nước ông bà”, người còn sống thì tuổi cao, trí nhớ giảm sút.

Môi trường diễn xướng (hát kể) của sử thi cũng đang mất dần. Không gian hát kể sử thi mang tính tập thể trước kia như nhà dài, nhà rông, lúc lên rẫy, đi rừng, lễ hội… đã bị thu hẹp.

Trong số những nghệ nhân M’Nông ít ỏi còn lại, già Điểu Klung (82 tuổi) ở buôn Tul A (xã Ea Wel, huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk) là người thuộc và vẫn cần mẫn biên dịch những sử thi M’Nông mà mình thuộc từ hàng chục năm trước.

Căn nhà lụp xụp của già Điểu Klung nằm một góc bên con đường đất gồ ghề, bụi tung mù mịt. Già ngồi dưới bóng cây cạnh nhà tránh cái nắng hắt của thời tiết.

Cạnh nhà già Điểu Klung, những chú bé đen nhẻm, đôi mắt tròn xoe, đầu đội nón hip hop, áo phông, quần túi hộp cũng ngấp nghé ngó ra.

Thấy chúng tôi, già Điểu Klung nở nụ cười vui thân thiện trên khuôn mặt đen đúa, nhăn nheo. Nghe nói đến sử thi, đôi mắt già rực sáng, gương mặt bừng lên sự háo hức.

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 3
Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 4

Già vẫy tay gọi chúng tôi vào. Trong ngôi nhà, ngoài mấy tấm bằng khen và những cuốn sử thi M’Nông thì không có cái gì đáng giá.

Các con già Điểu Klung bảo, trăm ngày như một, sau bữa cơm tối, già nằm nghỉ một chút trên chiếc võng đã sờn cũ, rồi chong đèn ghi chép, dịch lại theo trí nhớ những thiên sử thi mà mình từng thuộc từ thời trẻ.

Theo già, “Ót” có nghĩa là hát, còn N’drông là câu chuyện xa xưa. Đây là hình thức hát kể chuyện xưa của người M’Nông.

Già Điểu Klung sinh ra trong một gia đình vốn yêu thích văn nghệ dân gian ở bon Pu Prâng (xã Quảng Trực, Tuy Đức, Đắk Nông). Nhà có 4 anh em. Ngày ấy, bố mẹ già giàu nhất bon (buôn), bố là người thuộc nhiều sử thi M’Nông nhất trong số các anh em.

Truyền thống người M’Nông xưa chỉ truyền Ót N’drông cho một người con duy nhất trong nhà và người đó phải ăn lá cây ngải để có giọng hát hay. Khi bố truyền lại Ót N’drông cho người anh thứ ba (Điểu K’lung là em út) ở trên rừng, ông đi theo nghe và trong đầu ông “dính” Ót N’drông từ đó.

Rồi những đêm canh rẫy ở chòi, lúc đi chăn trâu hay đi suối đâm cá, anh em nhà Điểu K’Lung lại được nghe ông già, bà lão trong buôn hát sử thi. Lúc về nhà thì dù ngủ hay thức cũng nghe cha hát kể, nghe miết tới mức hôm nào không nghe là thấy như nhà thiếu gạo, thiếu muối.

Lớn lên một chút, Điểu K’Lung không nhớ nổi cái chữ vì nhà nghèo, học ít, nhưng lại thuộc hàng trăm tác phẩm sử thi. Người anh trai Điểu Kâu thông thạo tiếng phổ thông nên trở thành một dịch giả sử thi M’Nông.

Theo lời già Điểu Klung, bon Pu Prâng ngày trước gần vùng biên heo hút, đời sống của bà con M’Nông gắn với những lễ cúng bến nước, cúng cơm mới, lễ bỏ mả, lễ thổi tai cho trẻ… Những dịp cúng lễ dường như đem lại cho cậu bé Điểu Klung niềm vui khác ngoài những thanh âm cồng chiêng rộn rã, nhất là khi nghe già làng, nghệ nhân trong bon hát kể Ót N’drông.

30 tuổi, già theo vợ về Đắk Lắk ở rể theo phong tục người Ê Đê. Năm 1994 già tham gia dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thực hiện tại tỉnh Đắk Lắk.

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 5
Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 6

Gần 7 năm liền (2001 - 2007), già rong ruổi khắp vùng cùng anh trai Điểu Kâu, chị gái Thị Doanh và cháu gái là Thị Mai ghi âm, biên dịch để in hơn 50 sử thi M’Nông. Nay người anh trai đã mất, già Điểu Klung vẫn cần mẫn nghiên cứu và lưu giữ những giá trị của Ót N’drông.

Già bảo, sử thi M’ Nông thường dài hơn sử thi Ê Đê. Bài dài nhất kể đến 6 ngày, bài ngắn 2 - 3 ngày. Trung bình mỗi bài ghi âm dài từ 7 đến 10 băng, dịch ra song ngữ M’Nông - Việt dung lượng lên tới cả nghìn trang.

Sử thi M’Nông thường được diễn xướng vào những đêm nông nhàn sau mùa làm rẫy, dịp lễ hội trong năm, trong lúc nghỉ ngơi trên rẫy, sau những ngày lao động vất vả. Khi màn đêm buông xuống, người M’Nông thường kéo đến nhà có người hát kể, thưởng thức câu chuyện xa xưa của cha ông mình.

Từ đêm này qua đêm khác, bên bếp lửa, già trẻ, nam nữ ngồi bên nhau nghe người già hát kể sử thi - đây chính là hình thức truyền dạy gián tiếp cho các thế hệ kế cận.

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 7

Già Điểu Klung kể, người M’Nông gần gũi sông suối, rừng cây, yêu thương từng thảm cỏ, cành hoa, từng mùa nắng mưa người lên nương rẫy, chung tay vun trồng, gặt hái. Ngày lễ hội mừng lúa mới, trong đêm trăng sáng vang vọng tiếng cồng chiêng, sông núi, rừng cây hòa lòng người, tiếng nhạc bên ánh lửa củi sáng hồng, người người chuyền tay nhau cần rượu thơm hương lúa mới.

Rừng vừa là không gian vừa là thời gian, người M’Nông đo thời gian chính bằng không gian ấy. Trước khi đi săn người ta phải cúng thần rừng, trước khi chặt cái cây về làm K'pan (ghế dài làm bằng cây gỗ liền) người ta phải cúng thần cây.

Nhưng gần chục năm trở lại đây, những cánh rừng cứ dần biến mất. Những chiếc cưa máy dài ngoằng theo bàn tay con người đốn hạ những cây rừng trăm tuổi, chỉ sau một đêm, hàng chục hecta rừng tại huyện Buôn Đôn bị đốn hạ, nhiều quả đồi bị "cạo trọc", rừng bị đốt nham nhở. Cán bộ xã có mặt thì họ rút đi, cán bộ về là họ tiếp tục phá rừng. Rừng qua năm, qua tháng tàn từ thượng nguồn núi cao, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng nguyên sinh bị chặt hạ, tất cả cạn kiệt…

“Mùa xuân này, người M’Nông buồn không còn thấy cây ngàn bóng cả, chim thú cũng buồn, không còn bay nhảy bên cành nhánh khô khốc trần trụi, tháng ngày qua đã bỏ đi xa. Không có rừng thì chẳng có nhà để ở, chẳng có đất để làm rẫy, cũng không có cái lá để làm men rượu”, đôi mắt già làng M’Nông buồn xa xăm, ông nói như khóc.

Nói rồi già rảo bước đưa chúng tôi ra rẫy. Già bảo, phải ra chòi, nhìn thấy thần rừng Ót N’drông mới vang lên được.

Và giữa khoảnh đất trống, xung quanh là những tán cây khô cằn, già bắt đầu Ót N’drông Bông, Rong và Tiăng bằng tiếng M’Nông, tạm dịch ra tiếng Việt:

“Không có một bụi cây che nắng/ Không có một bụi tre cho người núp/ Cũng không có một bụi cỏ tựa lưng/ Người trên kia gieo lúa vào kẽ đá/ Rong dứt lời Bông đáp lại ngay/ Thế ư em, anh đã biết rồi/ Em để anh lo cho là xong/ Bông nghĩ đến việc đắp đất trồng cây trên đó/Trồng các loại cây cỏ/ Trồng các loại cây ăn cỏ/ Bông mang theo các loại ong và chim muông/Bông mang theo giống cây trồng làm hàng rào/ Đem giống cây tre giúp nghề đan gùi”.

Từ chỗ là “món ăn” không thể thiếu như gạo, như muối trong đời sống hằng ngày, sử thi Tây Nguyên vốn gắn liền với văn hóa nương rẫy, nhà dài, nhà rông, bến nước, nhà mồ… đang bị mất đi.

Rừng mất, tiếng chiêng không còn, bếp lửa cũng tắt… liệu ai còn muốn hát khan?

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 8
Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 9

Già Y Wang Hwing (73 tuổi), ở buôn Tría, xã Ea Tul, huyện Cư M’gar, là một trong những nghệ nhân hát kể sử thi hiếm hoi của người Ê Đê ở Đắk Lắk. Với ông các điệu khan thân thuộc như hơi thở của chính mình. Ông say mê hát kể cho bất cứ ai muốn nghe và sẵn sàng truyền dạy cho bất kỳ ai muốn học.

Nghệ nhân Y Wang thuộc 4 sử thi nổi tiếng của người Ê Đê gồm: ÊĐăm Bhu - Đăm Bha, ÊĐăm San, Êbõng Hiu Knuh YBũng HĐăng.

Trong ngôi nhà xây kiên cố, nghệ nhân già đưa ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía mấy nhạc cụ dân tộc được cất giữ cẩn thận, ông mở ngăn tủ kính lấy cây đàn goong ra tấu một bản để đón khách.

Huyện Cư M’Gar có 24 dân tộc anh em đang sinh sống. Trong đó, nhóm cư dân bản địa người Ê Đê, Xê Đăng, M’Nông đều có trường ca - sử thi riêng của dân tộc mình. Ngày xưa, mỗi buôn có một, hai người biết hát. Giờ cả huyện chỉ còn năm người, được xem như “di sản sống”.

Già làng Y Wang Hwing, người Ê Đê, ở buôn Tría, nổi tiếng hơn cả. 17 năm trước, ông từng khiến những người tham dự Lễ hội Âm nhạc dân gian thế giới ở Phần Lan sửng sốt khi diễn xướng trường ca liên tục suốt 8 giờ.

Buôn Tría ngày nay hiếm thấy nhà dài, nhà sàn. Chỉ có những ngôi nhà tường gạch giống miền xuôi. Có  khác chăng chỉ là nhà ai cũng có một khoảng sân rộng để phơi cà phê. Nhà của già làng Y Wang Hwing cũng mang những nét “hiện đại” đó.

Thứ duy nhất nhận ra đặc trưng của người Ê Đê là tấm ảnh ông mặc chiếc áo thổ cẩm được treo trong phòng khách bên cạnh bằng khen của Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú.

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 10
Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 11

Già Y Wang Hwing kể, nếu như trước đây, buôn làng nào cũng có vài người biết hát kể sử thi và loại hình nghệ thuật này vẫn được trình diễn phổ biến trong cộng đồng thì ngày nay, nghệ nhân ngày càng hiếm. Bà con buôn làng cũng không còn quây quần bên bếp lửa bập bùng nghe nghệ nhân hát sử thi, những đêm khan huyền thoại ở Tây Nguyên đang mất dần.

Lũ trẻ con ngoài giờ học hay lúc làm rẫy thì thích nghe nhạc hip hop, thích xem phim Hàn, thích ra phố mua sắm, dường như bỏ hẳn thói quen nghe già kể trường ca Đăm San, Đăm Bri, Kinh Dú, Xinh Nhã...

Tối cao nguyên buốt lạnh. Trong căn nhà khang trang, già Y Wang Hwing húng hắng ho. Đôi mắt thoáng buồn khi nhắc nhớ về những đêm trường ca huyền thoại của hơn nửa thế kỷ trước, khi mà cả đại gia đình cùng sống trên một mái nhà dài.

Bảy, tám gia đình, mấy chục con người cùng ăn, cùng ngủ, cùng thao thức trong một không gian. Đó là những lúc nông nhàn, đồng bào gọi là mùa “ăn năm uống tháng”. Bếp lửa ấm áp được nhen lên, người già bắt đầu hát trường ca - sử thi.

Đêm đêm quanh bếp lửa hồng tỏa ấm nhà dài, những người già ngân nga câu hát kể về những dũng sĩ Đam San, Đam Di hùng cứ một phương. Đêm này qua đêm khác, củi cứ được tiếp thêm cho bếp lửa ấm áp bừng sáng. Tiếng chiêng, tiếng đàn và những câu chuyện cứ nối dài từ đêm này sang đêm khác. Cứ thế, trường ca - sử thi cũng như một dòng chảy triền miên, truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 12
Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 13

Chiều buông. Lạnh. Già Y Wang Hwing ngưng kể chuyện ngày xưa bên bếp lửa. Ông bước xiêu vẹo đi tìm “kho báu” của mình: Đàn k’ni, Gôc, Đinh Năm, Đinh Ktuk (ống sáo trúc).

“Từ xa xưa, trong trường ca - sử thi có nhiều đoạn nói về mối quan hệ giữa người với rừng. Ai phá rừng, phá nguồn nước là bị phạt nặng lắm. Phạt con trâu, con bò chứ không ít. Nói miệng thôi. Không giấy tờ gì cả. Nhưng quy ước bảo vệ rừng nghiêm ngặt lắm. Giờ rừng không còn. Cũng lấy đâu ra gỗ để làm nhà dài. Những đêm hát trường ca bên bếp lửa cũng không còn nữa…”, già Hwing nói. “Nhà dài như một tiếng chiêng ngân đâu còn. Rừng ngày xưa cũng không còn, đất không giữ được nước ngầm. Giờ lo cho rẫy cà phê. Mùa khô hạn lo đi tưới nước cho cà phê..."

Không còn không gian, trường ca cũng bơ vơ ngay trên buôn làng.

“Giờ rừng còn ít nên thời tiết cũng thay đổi, trời nóng lắm, con cháu mình không còn muốn đốt lửa nhảy múa nữa, tiếng cồng chiêng chỉ vang lên mỗi khi buôn làng tiếp khách quý hoặc có lễ hội, người già chúng mình làm gì kể được khan nữa đâu, phải có tiếng cồng chiêng, phải có cây rừng, phải có con thú bên cạnh.

Giờ con tê giác không còn, con hổ không thấy vết, cây rừng theo những chiếc xe to về miền xuôi cho người ta xây nhà, “ÊĐăm Bhu - Đăm Bha”, “ÊĐăm San”, “Êbõng Hiu Knuh” và “YBũng HĐăng” đám thanh niên của làng không hiểu nữa rồi. Khan rời cánh rừng xa, rời con suối gần, rời bếp lửa đêm rừng, rời muôn thú sẽ lạc lõng lắm”, già Y Wang HWing bảo.

Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San - 14

Video: Bảo tồn những cá thể voi ít ỏi còn lại ở Tây Nguyên 

Đến giờ anh Siu Kiêm vẫn chưa thể quên được cái đêm cách đây hơn 2 năm, Yẵ Tao, con voi nhà cuối cùng của người quản tượng cuối cùng ở vùng đất Ayun - Chư Mố (huyện Ia Pa, Gia Lai) đã không còn cơ hội vui với nắng gió đại ngàn.

Theo lời anh Siu Kiêm, tin voi Yẵ Tao gần 60 năm tuổi chết đầu tháng 12/2020 làm rúng động cả một vùng thung lũng Ayun rộng lớn trong nhiều ngày.

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 1

Voi Yẵ Tao khỏe mạnh, lực lưỡng khi xưa, từng giúp dân làng dựng bao ngôi nhà khang trang, kéo bao nhiêu cột điện thắp sáng đường quê nay nằm đó, im lìm, cô độc.

Tiếng khóc lan dần, vợ chồng anh Siu Kiêm chết lặng, đau đáu nhìn Yẵ Tao nằm bất động. Nỗi đau cuộn lên từ bên trong...

Rmah H’Ri, vợ của Siu Kiêm, khóc nghẹn bên xác Yẵ Tao. Theo phong tục địa phương, khi khóc phải quay lưng lại với người đã khuất để linh hồn người chết được siêu thoát. Có lẽ trong lòng Rmah H’Ri, voi Yẵ Tao không chỉ là một con vật. Vì vậy, H'Ri chỉ biết ôm lấy nhánh cây bên rừng gọi tên Yẵ Tao, nước mắt tuôn dài.

Đó là con voi nhà duy nhất còn lại của làng voi vang bóng một thời ở Tây Nguyên. Trong ký ức Siu Kiêm, của người làng ở vùng Ayun này thì Yẵ Tao là biểu tượng vĩnh cửu của làng.

Xưa kia, Chư Mố nổi tiếng là vùng nuôi nhiều voi với hàng chục con. Voi giúp người dân chuyên chở đồ vật, kéo gỗ làm nhà. Với người dân Chư Mố, voi không chỉ là một tài sản lớn mà còn là con vật linh thiêng, là niềm kiêu hãnh của dòng họ, buôn làng. Họ coi nghề nuôi, thuần dưỡng voi là bản sắc văn hóa của cha ông truyền lại, phải giữ gìn cho con cháu mai sau. Đó là tâm nguyện của người quản tượng cuối cùng ở vùng đất này, được trao truyền cho người con rể Siu Kiêm.

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 2

Theo thời gian, máy móc hiện đại dần thay thế sức voi. Những người quản tượng không đủ điều kiện nuôi voi đành phải bán dần. Cả một vùng Chư Mố nổi danh nuôi nhiều voi chỉ còn mình voi đực Bak Xôm của ông Ksor Chăm. Thương Bak Xôm đơn độc, năm 1990, ông Chăm đem phần lớn tiền bạc trong nhà đến phiên chợ voi tại tỉnh Đắk Lắk mua thêm Yẵ Tao.

Bak Xôm cùng Yẵ Tao kết duyên với nhau thắp lên hy vọng sẽ có những chú voi con khỏe mạnh chào đời. Nhưng rồi, hy vọng của dân làng bị dập tắt khi không lâu sau Bak Xôm bệnh nặng rồi chết. Yẵ Tao “góa bụa” khi mới hơn 20 tuổi.

Bak Xôm ra đi, niềm vui duy nhất của Yẵ Tao là được ở bên người chủ của mình. Nhưng ông ngày một già yếu, đau bệnh triền miên. Sợ voi thiếu đồ ăn sẽ phá hoại ruộng rẫy của dân làng nên ông chủ đưa voi lên núi Ia Tul ở.

Mỗi khi thấy khỏe trong người, ông Chăm lại lên rừng tìm Yẵ Tao trò chuyện. Gặp chủ, Yẵ Tao mừng lắm, cả ngày đùa nghịch dưới sông Tul  để được chủ tắm rửa, vuốt ve. Rồi một lần nữa, Yẵ Tao phải đối diện với chuyện sinh-ly-tử-biệt. Tháng 4/2017, ông Chăm qua đời. Yẵ Tao được đưa về làng Plei Apa Kdranh để đưa tiễn chủ.

Ksor Alưh, con rể ông Chăm ngồi trên lưng voi dẫn đầu đoàn đưa tang. Thường ngày, voi rất sợ đông người, nhưng hôm ấy, dường như tất cả nỗi sợ hãi đều tan biến. Nó chỉ muốn ở bên cạnh linh cữu ông chủ. Rồi Yẵ Tao quỳ xuống bên mộ, rống lên hai tiếng dài thống thiết giã từ.

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 3

Ông Chăm qua đời, con rể Siu Kiêm thay ông chăm sóc Yẵ Tao. Anh ở trong khu rẫy của gia đình cách nơi Yẵ Tao ở chừng 3 km. Hàng ngày, anh Kiêm đều đặn ba lần vào núi dắt voi đi uống nước và di chuyển vị trí cột, đảm bảo cho voi có đủ thức ăn.

Đã có nhiều người đến gạ mua voi Yẵ Tao với giá cao, thậm chí có người còn đánh ngay một chiếc ô tô Santa Fe đời mới trị giá gần tỉ bạc đến nhà đòi đổi ngang con voi, nhưng anh Siu Kiêm một mực chối từ.

Theo lời anh Siu Kiêm, hôm ấy anh vào núi dắt voi đi uống nước. Yẵ Tao đột nhiên ngã quỵ, không đứng lên được. Hơn 10 năm chăm sóc Yẵ Tao, chưa bao giờ anh thấy voi đổ bệnh.

Mỗi khi bị tiêu chảy, Yẵ Tao thường tự tìm lá thuốc nhai, chỉ 1 - 2 ngày sẽ bớt. Nhưng lần này, linh cảm chuyện chẳng lành, anh Kiêm vội gọi người nhà mang đồ ăn vào rừng. Dường như đã kiệt sức, Yẵ Tao không thể nhúc nhích và không ăn được miếng nào.

Giữa bạt ngàn núi rừng, bên dòng sông Tul, Yẵ Tao nằm đó, rệu rã, mệt mỏi. “Sau bốn giờ cố gắng, khi thành viên cuối cùng trong nhà là anh Rmah Net, con trai đầu của cha vợ tôi có mặt, Yẵ Tao mới nhắm mắt ra đi. Chúng tôi hiểu  nó muốn từ biệt tất cả thành viên trong gia đình”, anh Siu Kiêm kể.

Sợ nước dâng cao, có thể trôi mất xác voi, phần cũng sợ có người sau này đào trộm xương voi nên người nhà anh Siu Kiêm quyết định chở voi về chôn cất ngay bên rẫy của gia đình để tiện việc trông coi và cũng để Yẵ Tao đỡ hiu quạnh.

Sau nhiều nỗ lực của dân làng, Yẵ Tao được đưa lên xe công nông chở về địa điểm chôn cất. Yẵ Tao được đặt nằm ngay ngắn như đang ngủ. Người thân trong gia đình xuống huyệt, từ biệt Yẵ Tao lần cuối trong sự tiếc thương. Anh Siu Kiêm lặng lẽ nhổ những sợi lông đuôi của Yẵ Tao gói cẩn thận trong bì ni lông. Siu Kiêm muốn giữ lại một chút kỉ vật gì đó của Yẵ Tao để con cháu mai sau biết được truyền thống của gia đình. Mọi người cẩn thận phủ lên mình voi tấm bạt mới trước khi lấp đất đá đắp mộ.

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 4

Trong khuôn viên Khu du lịch cầu treo Bản Đôn (huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk), có khu tưởng niệm hai chú voi Pắc Cú và H’Panh đã qua đời.

Theo lời một nữ nhân viên Khu du lịch, voi Pắc Kú được những gru (thợ săn voi) ở Bản Đôn bắt được vào mùa hè năm 1978. Sau gần 6 tháng thuần dưỡng, chú đã trở thành thành viên của đàn voi nhà Bản Đôn. Hiền lành, thân thiện và thông minh, Pắc Kú được người dân trong buôn làng và đám trẻ rất yêu thích. Chẳng bao lâu, Pắc Kú đã trưởng thành, hằng ngày chăm chỉ công việc nương rẫy và xuất sắc trong những lần cùng các gru vào rừng.

Năm 1988, một người ở huyện Chư Sê (Gia Lai) mang nhiều vật quý đổi lấy Pắc Kú. Đầu năm 2009, sau 21 năm xa đàn và buôn làng quen thuộc, Pắc Kú được đón về làm việc tại Khu du lịch sinh thái Bản Đôn.

Pắc Kú nghịch ngợm nhưng đặc biệt thông minh. Nó có cặp ngà đẹp, dài khoảng 1 m. Cũng chính vì đôi ngà mà voi Pắc Kú mang họa sát thân.

Khoảng 21h ngày 16/10/2010, trong cơn mưa cuối mùa Pắc Cú bị một nhóm trộm voi dùng vỏ lốp xe đốt lên, tẩm xăng gí vào người. Pắc Kú đau đớn, hoảng loạn di chuyển khiến dây xích cột voi càng siết chặt vào thân cây.

Đám người vô nhân tính tiếp tục dùng búa, rìu bổ liên tiếp vào người voi. Pắc Kú cố gồng xích thoát thân được.

Trên đường thoát thân, máu Pắc Kú văng tung tóe bám vào lá cây bên đường.

Sáng ra, nài voi vào rừng nhưng không thấy Pắc Kú, xung quanh chỉ thấy loang lổ vết máu, sợi xích dùng để buộc dưới chân chú voi nhà nặng gần 3 tấn này đã bị bứt đứt, trảng cỏ tranh bị xé toang, bùn đất bê bết… nên hốt hoảng cùng buôn làng theo những vết máu loang đi kiếm.

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 5

Khi chăm sóc cho voi, người Buôn Đôn đã bật khóc trước những vết thương trên cơ thể Pắc Cú, những vết chém rất sâu. Phần mặt, vòi cùng toàn bộ phía sau mông voi bị đốt cháy đen. Đuôi voi có hai đoạn bị chặt gần như đứt hẳn, hai chân sau bị chém lòi cả xương. Tổng cộng có 217 vết chém trên cơ thể Pắc Kú.

Pắc Kú được đưa về làng chữa trị. Hằng ngày, voi được đắp lá cây rừng và uống thuốc. Nhưng sau 2 tháng được cứu chữa, do vết thương quá nặng, 8h ngày 6/1/2011 Pắk Cú ngã gục xuống đất, đầu hướng về phía trước, trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 33. Chú voi có cặp ngà đẹp nhất nhì Bản Đôn đã chết. Cái chết của Pắc Cú gây chấn động dư luận.

Sau khi Pắc Cú chết, lo sợ kẻ xấu nhăm nhe vào cắt ngà, nhân viên Khu du lịch phải thay phiên túc trực thâu đêm canh xác voi. Thậm chí, họ phải nhờ công an huyện, bộ đội đơn vị kết nghĩa đến bảo vệ xác Pắc Kú liên tục mấy ngày liền. Và chỉ khi mộ được đổ bê tông kiên cố, Pắc Kú mới được yên.

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 6

 Cố Giám đốc Trung tâm Bảo tồn voi (Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk) Trần Xuân Phước từng chia sẻ với Báo điện tử VTC News đầu năm 2023 , số voi nuôi ở Đắk Lắk đã giảm từ 502 con đầu những năm 1980 xuống còn 37 con tính đến năm 2023 (trong đó có 24 voi ở huyện Buôn Đôn, 12 ở huyện Lắk, một voi ở huyện Krông Ana).

Số lượng voi rừng còn khoảng 24 - 45 con (sinh sống trên phạm vi 4 huyện là Buôn Đôn, Ea Súp, Cư Mgar và huyện Ea Hleo), trong khi cách đây 34 năm vẫn còn khoảng trên 2000 con.

Hơn 30 năm qua tại Đắk Lắk chưa có con voi nhà nào được sinh ra, trong khi đàn voi nhà của tỉnh đã già yếu và chết dần. Mặt khác, voi nuôi thiếu cơ hội được thể hiện hành vi tự nhiên, bị con người sử dụng quá mức nên tuổi thọ ngắn... 37 cá thể voi còn lại hầu hết đã già, không thể sinh sản.

Nguyên nhân của sự suy giảm trầm trọng số lượng voi này là do mất rừng, diện tích rừng ngày càng suy giảm, co hẹp làm mất nơi ở và sinh sống của voi. Không chỉ suy giảm về diện tích mà chất lượng rừng cũng giảm làm thức ăn của voi khan hiếm, từ đó khả năng, chất lượng sinh sản của đàn voi cũng giảm nên khả năng bổ sung số lượng cho đàn voi, bổ sung voi con cho đàn bị ảnh hưởng.

Một nguyên nhân nữa là do xung đột giữa voi với người và nạn săn bắn, bẫy bắt voi để lấy ngà và các sản phẩm từ voi cũng góp phần làm giảm số lượng quần thể voi .

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 7

Vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những khu rừng đặc dụng lớn nhất Việt Nam, thuộc 2 tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk vậy nhưng, theo đại diện Vườn Quốc gia Yok Đôn, những năm gần đây, rất khó để gặp voi rừng. Năm 2022, chủ yếu phát hiện cá thể đơn lẻ (131 lần ghi thông tin), nhiều nhất là đàn 3 con. Năm 2023 có 87 lần ghi thông tin về voi xuất hiện, trong đó có 3 đàn, 10 con. Từ đầu năm 2024 đến nay chủ yếu phát hiện cá thể đơn lẻ (37 lần ghi thông tin), nhiều nhất là đàn 3 con.

Những năm 80 của thế kỷ trước, trẻ em và cả người lớn rất thích bài hát Chú voi con ở Bản Đôn của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Được biết, ngày ấy nhạc sĩ Phạm Tuyên đến Buôn Đôn, xúc động trước hình ảnh chú voi con chưa đầy một tuổi được chăm sóc trong vòng tay của người dân buôn làng, ông đã sáng tác ca khúc này. Sau bao nhiêu năm, âm điệu vui tươi của bài hát ấy vẫn vang vọng giữa Tây Nguyên đại ngàn.

Đàn voi Tây Nguyên đang bị suy kiệt nghiêm trọng, nếu không có những biện pháp bảo tồn quyết liệt và hữu hiệu hơn, thì có lẽ trong thời gian không xa nữa, hình ảnh đàn voi vốn thân thuộc với người Tây Nguyên sẽ chỉ còn trong bài hát.

Như lời nói đắng chát của già Ma Doanh: "Mấy chục năm rồi buôn Đôn làm gì có con voi nhà nào được sinh ra"....

Cái chết của con voi nhà cuối cùng - 8

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 1

Men theo con dốc nhỏ dựng đứng giữa cánh rừng rậm rạp bóng cây cổ thụ, già làng Y Wih Êban (68 tuổi, trưởng buôn K’mrơng Prông B, xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) dẫn lối chúng tối xuống khu vực bến nước của buôn. Tương truyền, cách đây chừng 200 năm, tổ tiên của già làng Y Wih Êban trên hành trình di cư đã phát hiện ra bến nước này.

Ngay tại vị trí chúng ta đang đứng, tổ tiên tôi đã từng dâng lễ cúng thần nước, thần rừng để chính thức lập buôn mới, lấy tên K’mrơng Prông B. Theo quan niệm của người Ê Đê, điều tiên quyết trước khi quyết định lập làng mới là phải chọn cho được khu đất có bến nước", già làng Y Wih Êban chia sẻ.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 2

Trải qua hàng trăm năm, từ buổi đầu sơ khai lập làng chỉ với vỏn vẹn 20 hộ, đến nay, cả buôn có 178 hộ (gần 1.300 nhân khẩu). Song, dù là nhập cư hay dân bản địa, người Ê Đê ở K’mrơng Prông B vẫn gìn giữ tán rừng nguyên sinh như báu vật.

Hương ước của làng nêu rõ, ai chặt một cây ở cánh rừng thuộc khu bến nước sẽ bị buộc phải nộp một con trâu hoặc một con bò cùng vài vò rượu cần. Ngoài ra, trước toàn thể bà con trong buôn, người vi phạm phải cúi đầu xin lỗi, hứa không tái phạm.

Già làng Y Wih Êban cho hay, trải qua 200 năm kể từ khi lập buôn, địa phương mới chỉ phát hiện và xử lý một trường hợp duy nhất vi phạm.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 3

Chuyện xảy ra cách đây cũng gần 30 năm rồi. Khi ấy, một người trong buôn trót dại cưa trộm cây gỗ trong rừng để làm đòn tay nhà và bị bà con đi làm rẫy bắt quả tang. Để chuộc lỗi, người này đã mang một con bò, mấy vò rượu ra bến nước làm lễ cúng, xin các thần linh đừng tức giận mà làm tắt mạch nước. Trước sự chứng kiến của toàn thể đồng bào trong buôn, người này cúi đầu nhận lỗi, hứa không tái phạm”, già Êban nhớ lại.

Cũng theo vị già làng, những năm trước, thỉnh thoảng xuất hiện người lạ mặt tới lân la chặt phá gỗ. Song trước sự giám sát chặt chẽ của bà con trong buôn, hành vi “tàn sát” rừng tại K’mrơng Prông B chưa từng xảy ra.

Nhờ sự chung tay bảo vệ của buôn làng, cánh rừng rộng 2,5 ha ở K’mrơng Prông B đến nay vẫn còn nguyên vẹn, nhiều cây cổ thụ có tuổi đời lên tới hàng trăm năm.

Cây sao 150 năm tuổi ngay bên bến nước dù đã chết khô từ 10 năm nay, thậm chí có người ngoài tìm tới mua với giá 50 triệu đồng nhưng bà con trong buôn cương quyết không bán. Bà lo sợ việc đốn hạ cây sẽ mang tới điều không may. Rừng là để nuôi dưỡng chứ không phải đem ra chặt phá. Bởi vậy, người dân ở đây dù có thiếu cây gỗ làm nhà cũng lặn lội tìm mua chứ nhất quyết không chặt cây rừng ở bến nước.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 4

Một trong những lý do được nhà chức trách đưa ra để giải thích việc mất rừng ở Gia Lai là diện tích lớn mà lực lượng mỏng. Thế nhưng, tại làng Grôn (xã Ia Kriêng, Đức Cơ), khu rừng giáng hương gần 1.000 cây suốt hơn 30 năm qua lại không mất cây nào. Đó là nhờ sự chung tay bảo vệ của dân địa phương mà cụ thể là các ông Rơ Mah Le, Nguyễn Hữu Mạnh và Rơ Mah Kem.

Ông Le kể, từ năm 1990, khi phong trào trồng cây cao su rộ lên, toàn bộ diện tích rừng ở làng Grôn và làng Gà thời đó là rừng nghèo, đồi núi trọc đã được phê duyệt chuyển đổi sang trồng cao su. Khi những chiếc máy ủi đến san phẳng cánh rừng nghèo cằn cỗi, người ta phát hiện tại xã Ia Kriêng có một khoảnh rừng cây giáng hương.

Ngay lập tức, ông Le họp lãnh đạo xã bàn phương án bảo tồn rừng giáng hương đặc hữu. “Khi nghe tôi đề xuất phương án giữ lại rừng giáng hương, anh em cán bộ xã hưởng ứng nhiệt tình. Ngay sau đó, tôi cùng với lực lượng công an xã, địa chính, phụ nữ vào đây phát quang cây cối xung quanh, cắm bảng thông báo rừng giáng hương thuộc sự quản lý của UBND xã. Tiếp đến, tôi vận động dân làng Grôn nhận canh gác, bảo vệ. Nhờ đó mà khu rừng được giữ nguyên vẹn cho hôm nay”, ông Le nhớ lại.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 5

Ban đầu khu rừng rộng 3 ha này có 853 cây giáng hương, một cây gỗ trắc và một số ít cây dầu, bình linh, bằng lăng… Trải qua hơn 30 năm dưới sự bảo vệ của ông Le và người dân làng Grôn, cánh rừng giáng hương đã phát triển lên gần 1.000 cây lớn, nhỏ.

Cây giáng hương được đánh số thứ tự, kể cả những cây nhỏ nhất. Theo ông Le, làm như vậy sẽ tiện cho việc giám sát, đề phòng bị mất trộm. Lâm tặc đột nhập vào rừng cũng khó bề chạy thoát vì ở đây chỉ có con đường độc đạo, đi ngang nhà 50 hộ dân người Gia Rai ở làng Grôn.

Từ năm 2019, ông Rơ Mah Le nghỉ hưu. Lúc này, ông bày tỏ nguyện vọng được tiếp tục công việc bảo vệ rừng giáng hương, cánh rừng mà ông tâm huyết gìn giữ hàng chục năm nay.

Để giúp ông Le, xã cắt cử thêm ông Rơ Mah Kem và ông Nguyễn Hữu Mạnh thay phiên nhau giữ rừng, mỗi người 2 - 3 ngày/tuần. Tiền công gác rừng không đáng là bao nhưng ai cũng tình nguyện ăn ngủ, "bám rừng".

Có thời gian dài gắn bó với cây giáng hương, ông Rơ Mah Kem cho biết: "Từ xưa, chúng tôi bảo vệ rừng giáng hương này đều không có phụ cấp gì. Lúc đó, tôi cùng dân làng thay phiên nhau bảo vệ, tuần tra cánh rừng. Gần đây, nhận thấy giá trị to lớn của cánh rừng giáng hương, Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ cho những người giữ rừng như chúng tôi, mỗi tháng 1 - 2 triệu đồng".

Theo ông Nguyễn Hữu Mạnh, với người J’rai ở Ia Kriêng, rừng hương như một báu vật, một món ăn tinh thần không gì sánh bằng. Tuy nhiên khi biết tỉnh Gia Lai xây dựng Quảng trường Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên (đặt tại TP Pleiku), người dân Ia Kriêng đã không ngần ngại tặng 20 cây giáng hương từ khu rừng để trồng ở khu vực quảng trường.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 6

Gần 4 thập kỷ qua, già Cil Ju Ha Giản (65 tuổi, dân tộc K’Ho, thôn Liêng Bông, xã Đa Nhim, Lạc Dương, Lâm Đồng), được bà con trong vùng Bidoup - Núi Bà nhắc đến như một minh chứng cho những người Cil yêu rừng.

Trước năm 1977, nhà già lọt thỏm giữa rừng Bidoup. Mỗi mùa trăng, già đều phải gánh củi, vượt qua cánh rừng nguyên sinh này xuống xuôi đổi lấy muối về ăn.

Sau này, rừng Bidoup bị “ăn mòn” với nhiều lý do. Nơi người Cil ở từ vùng lõi dần trở thành bìa rừng. Lúc này, đàn ông người Cil ở xã Đa Nhim đều tình nguyện tham gia công tác liên quan đến giữ rừng, trong đó có già Ha Giản.

Khu vực rừng tại xã Đa Nhim này chia thành 2 loại: Rừng thấp và rừng cao (rừng thông và rừng tạp nguyên sinh). Trước kia rừng ở đây không thiếu một loài  thú nào cả, đi ra khỏi nhà là gặp, nhưng hơn 30 năm trở lại đây, rừng dần dần bị khai thác, nhường đất trồng cây cà phê, cao su… khiến cho diện tích rừng bị thu hẹp dần”, già Ha Giản nói.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 7

Già Ha Giản đã ở cái tuổi 65, nhưng bàn chân ông vẫn cứng như gỗ lim, đôi mắt vẫn sắc như mắt hổ. Hàng chục năm qua, già một mình theo dõi các dấu hiệu tàn phá rừng, sau đó báo cáo và phối hợp với chính quyền, bà con ngăn chặn.

Già vận động bà con nhận khoán bảo vệ rừng và trồng rừng mới. Những cánh rừng trước kia bị tàn phá bây giờ đã được thảm xanh.

Dân làng bảo vệ rừng thiêng - 8

Ở huyện Lạc Dương, những người yêu rừng, giữ rừng như già Ha Giản không phải là cá biệt. Chúng tôi dừng chân bên ngôi làng dưới chân Núi Bà tại thôn Đưng K’si, xã Đạ Chais. Phía trên những ngôi nhà nhỏ ấy là cánh rừng ngút ngàn mờ ảo trong lớp sương mù.

Căn nhà nhỏ mong manh dưới chân núi là mái ẩm của già Bon To Sa Nga. Già cũng là người K’Ho như già Ha Giản. Già góa vợ, sống cùng các con trai.

Chỗ quen thuộc của già Sa Nga là bệ cửa trong căn bếp cuối nhà - nơi già ngồi trầm tư nghỉ ngơi sau mỗi chuyến đi rừng, đi rẫy về. Vị trí ấy phóng tầm mắt xa xăm ra những cánh rừng quen thuộc.

Già kể, trước năm 1975, rừng vào đến tận sát mép cửa sau chỗ già ngồi, rừng mênh mông lắm. Tuy nhiên, bà con cứ phá rừng làm rẫy, cứ làm một chỗ bỏ một chỗ, đi tới đâu đốt rừng tới ấy, đốt tràn lan. Không chỉ vậy, bà con chặt cây lấy gỗ bất kể bao nhiêu tuổi, gỗ quý hay không quý về làm nhà, làm cửa, làm hàng rào..

Khi đi tuần tra luôn có tổ trưởng, nhân viên trạm, hoặc đi có máy đánh vị trí, không đi qua loa một mình. Tất cả đều làm theo hợp đồng, nếu ai vi phạm sẽ bị cắt hợp đồng, vi phạm nặng thì bị xử phạt.

  • Phần 1: Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên'
  • Phần 2: Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại
  • Phần 3: Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San
  • Phần 4: Cái chết của con voi nhà cuối cùng
  • Phần 5: Dân làng bảo vệ rừng thiêng
  • Đọc tiếp: Phần 1: Làm gì còn nhiều rừng mà gọi là 'Đại ngàn Tây Nguyên'
  • Đọc tiếp: Phần 2: Còn đâu bóng cây kơ nia huyền thoại
  • Đọc tiếp: Phần 3: Rừng hết, muôn thú vãn, hết trường ca Đam San
  • Đọc tiếp: Phần 4: Cái chết của con voi nhà cuối cùng
  • Đọc tiếp: Phần 5: Dân làng bảo vệ rừng thiêng
Bình luận
vtcnews.vn