Theo sự chỉ dẫn, tôi tìm đến ngôi đình cổ của làng để gặp được ông Nguyễn Ngọc Đoán – ông từ đình và là người hiểu rõ về ngôn ngữ cổ của làng. Khi gặp tôi, ông vui vẻ hỏi: “Mỗ bao nhiêu rực?”, “Mỗ đã có xảo chưa?”. Tôi ngớ người, sững lại trước câu hỏi của ông.
Nằm giữa ngã ba sông Lương và sông Nhuệ, làng Đa Chất được coi là người “anh cả” của xã Đại Xuyên, Phú Xuyên, Hà Nội. Ngôi làng có không gian yên bình của chốn đồng quê ngoại thành với những đình, chùa,miếu.
Đến đây, ta như lạc vào một vùng đất lạ vì dân làng sử dụng mộtthứ ngôn ngữ riêng để trao đổi. Nếu không phải là người dân sở tại, muốn nghe được, hiểu được bạn phải có người… phiên dịch!
Ông Nguyễn Ngọc Đoán giải thích và chia sẻ về hệ ngôn ngữ cổ của làng |
Ông cười và nói rằng đó chính là thứ ngôn ngữ đặc biệt của làng ông đó. Ông Đoán giải thích: Chiếu theo lệ tục của làng, hễ gặp người làng,trước tiên là phải dùng thứ ngôn ngữ này để trao đổi với nhau không các cụ quở. Vừa rồi ông hỏi là: “Cháu bao nhiêu tuổi?”, “ Cháu đã lấy chồng chưa?”. Cho đến tận lúc này, tôi mới hiểu và trả lời được câu hỏi của ông.
Ông mời chúng tôi vào ngôi đình cổ của làng để nói chuyện. Sau đó, vị“già làng” cẩn thận mang ra những cuốn sách trông cũ kĩ và cổ xưa, lật giở từng trang ghi chép lịch sử, tự hào kể cho chúng tôi nghe về những lớp ý nghĩa, cũng như vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt trong thứ ngôn ngữ “có một không hai” trên dải đất hình chữ S này.
Ông còn không quên giới thiệu cho chúng tôi một vài câu nói quen thuộc trong hệ ngôn ngữ cổ của làng: “Con thít đi – Con ăn cơm đi”, “Thít mận? – Uống nước không?”,...
Ông Nguyễn Ngọc Đoán chia sẻ: “Theo những tài liệu thần phả của làng Đa Chất viết thì đây là nơi thờ Trung Thành Đại Vương, còn gọi là ThổLệnh Trường - Tướng chỉ huy thời vua Hùng. Ngài là con thứ 3 của Hào trưởng vùng Hồng Giang (sông Hồng) có tên Đào Công Bột - ông tổ của ngôn ngữ này. Trong cuộc chiến giữa nhà Thục và vua Hùng, sau khi thắng trận thì về khao quân.
Hồi đó, để làm ra hạt gạo tốn nhiều công sức. Thương dân, ngài đauđáu nghĩ cách giúp. Ngài là người đầu tiên phát minh ra cối xay. Nghề làm cối được truyền từ đời này sang đời khác, các thợ làm nghề muốn giữ gìn những bí quyết riêng nên đã sáng tạo ra ngôn ngữ bây giờ.
Câu nói “Sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương” là để chỉ ông tổ ngôn ngữ đặc biệt này.Sinh Bạch Hạc nói về Đào Công Bột, còn thác Ba Lương nói về sự hóa củaThổ Lệnh Trường”.
Theo hương ước của làng, ngôn ngữ cũng được xem như một phần linh hồn, một phần tâm linh và cũng là tiếng nói mà cha ông đã phải cực kỳvất vả, phải dày công nhiều thế kỷ mới có được. Vì vậy mà tuy cận kề với các thôn khác như Cổ Trai, Thường Xuyên, Thái Lai, Kiều Đông, Kiều Đoài nhưng ở các làng này, người dân đều không biết và không nói được thứngôn ngữ cổ này.
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng, ngôn ngữ của làng Đa Chấtđược lưu giữ từ thời Văn Lang - Âu Lạc, và đây cũng là ngôi làng duynhất còn giữ được tiếng cổ.
Cụ Lê Đình Hiệp (91 tuổi), người nhiều tuổi nhất làng và cũng là người am hiểu về ngôn ngữ riêng biệt này cho biết: “Chỉ có người làng ĐaChất mới sử dụng ngôn ngữ này, những người ngoài làng thì không thể.Vùng đất làng này có một mãnh lực mà chỉ khi sống ở đất làng mới có thể thông thạo được ngôn ngữ làng. Cứ ra khỏi làng là quên, các cô gái tronglàng đi làm dâu xứ khác cũng chỉ một thời gian là không nói thành thạo được tiếng làng mình nữa”.
Các cụ bô lão trong làng chia sẻ lo ngại cho thứ tiếng cổ ấy sẽ bị thất truyền, bởi ngày nay, thế hệ thanh niên, thiếu niên không còn sửdụng ngôn ngữ cổ quý của làng nữa. “Đây là một thứ tiếng cổ của làng, nhưng để nói lưu loát được thì chỉ có những người từ 40 tuổi trở lên.Người càng cao tuổi thì nói càng kín và lưu loát. Lớp trẻ hiện nay khôngcòn ai sử dụng ngôn ngữ này nữa, tuy nhiên khi nghe người trong làngnói, họ vẫn hiểu” – cụ bà Lê Thị Nhẫn ( 82 tuổi) chia sẻ.
Ông từ Nguyễn Ngọc Đoán cũng trăn trở: “Càng phong phú bao nhiêu lạicàng hư tục bấy nhiêu”. Thanh niên trong làng đôi khi lợi dụng “tiếng lóng” của làng để trêu nhau, trêu những người lạ vào làng. Lệ làng khi xưa có quy định rõ ràng rằng, tất cả những người sinh ra ở làng Đa Chất đều phải học thứ ngôn ngữ này. Tuy nhiên, đến nay, ngôn ngữ ấy chỉ được truyền miệng từ đời này qua đời khác trong làng. Đó cũng là lý do lý giải cho việc hệ ngôn ngữ cổ ấy ngày càng mai một.
Hiện nay, dòng ngôn ngữ cổ này tuy vẫn chưa được xác định rõ ràng nhưng đó vẫn là một “báu vật” của làng Đa Chất, xã Đại Xuyên, Phú Xuyên,Hà Nội nói riêng và của cả dân tộc nói chung. Vì vậy, việc cần gìn giữ và bảo tồn được thứ ngôn ngữ độc đáo ấy cần được nâng cao.
Nguồn: CAND
Bình luận