Ngoài kia, thời gian vẫn qua đi và bốn mùa luôn luân chuyển, con người chỉ xuất hiện một lần rồi ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng, cát bụi rồi lại về với cát bụi.
Nguyễn Quang Sáng cũng đi qua cuộc đời ấy, như biết bao con người và số phận, nhưng nhìn dấu chân ông để lại, bao nhiêu là tiếc nuối. Những Chiếc lược ngà, Cánh đồng hoang, Đất lửa... vẫn tươi mới như mới hôm qua, khi ông còn khoác bộ quân phục xanh màu lá tuổi vừa đôi mươi, giữa bom rơi đạn nổ vẫn lấp lánh những nụ cười.
Giữa cái ác liệt của chiến tranh, của mất mát, hy sinh, mẹ đợi con, vợ đợi chồng trong biệt ly không hẹn ngày về, Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nên những hình tượng nhân văn cao cả, về tình cha con thiêng liêng, về sự sống bất diệt giữa bốn bề cái chết bủa vây.
Ông còn để lại những kịch bản phim xuất sắc: Cánh đồng hoang (1978), Pho tượng (1981), Cho đến bao giờ (1982), Mùa nước nổi (1986), Dòng sông hát (1988), Câu nói dối đầu tiên (1988), Thời thơ ấu (1995), Giữa dòng (1995), Như một huyền thoại (1995).
Trong đó, ấn tượng nhất phải kể đến hai tác phẩm đỉnh cao: truyện ngắn Chiếc lược ngà và kịch bản phim Cánh đồng hoang.
Nhắc đến Nguyễn Quang Sáng là biết bao người rưng rưng xúc động khi nhớ về tình cha con thiêng liêng trong Chiếc lược ngà, được viết vào năm 1966.
Từ câu chuyện có thật của cô giao liên kiên trung trên vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước trắng, Nguyễn Quang Sáng đã viết nên câu chuyện xúc động và nhân văn giữa cái khốc liệt của chiến tranh.
Chiếc lược ngà là một câu chuyện cảm động giữa ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu đi kháng chiến, khi có dịp trở về thăm nhà thì con gái ông đã lên tám tuổi.
Xuồng chưa đỗ lại nhưng khi mới nhìn thấy con gái, ông Sáu đã ‘nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra’ rồi ‘bước vội vàng những bước dài’ và gọi to tên con gái.
Ông mường tượng trong đầu cảnh đứa con gái bé nhỏ sẽ mừng rỡ ‘chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh’ để rồi ‘anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con’.
Nhưng có ngờ đâu cô con gái bé nhỏ khi nghe ông gọi lại ngơ ngác, lạ lùng, giật mình hoảng sợ rồi với gương mặt tái đi, nó vụt chạy và thét lên cầu cứu má.
Bé Thu không nhận ông là cha vì vết sẹo dài trên má khiến khuôn mặt ông không còn giống như trong bức ảnh chụp chung với má mà bé Thu đã biết.
Rồi những ngày ở nhà, ông Sáu tha thiết muốn nghe một tiếng gọi ba từ chính cô con gái bé nhỏ nhưng sao khó quá. Ông muốn chăm sóc, yêu thương, vỗ về bé nhưng ông chỉ nhận lại một thái độ cự tuyệt, ngang bướng đến không ngờ.
Chỉ đến những giây phút cuối cùng lúc chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc làm cha khi bé Thu bất ngờ gọi to ông Sáu một tiếng ‘ba’ như xé toạc bầu không khí.
Tiếc rằng, phút giây hạnh phúc ngắn ngủi, vì nhiệm vụ ông lại phải từ biệt đứa con gái yêu dấu của mình để lên đường.
Vào khu căn cứ, nhớ lời con, ông Sáu đã làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con nhưng cuối cùng, ông hy sinh trong một trận càn của địch khi chưa kịp gặp cô con gái thêm một lần nữa.
Nhắc đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, không thể không nhắc tới kịch bản phim Cánh đồng hoang – Tác phẩm kinh điển của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam thế kỷ 20.
Từ một câu chuyện rất đỗi dung dị về cuộc sống của vợ chồng Ba Đô và cậu con trai nhỏ giữa cánh đồng trũng nước mênh mông, tác giả đã lột tả được tội ác của đế quốc Mỹ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Tác phẩm cũng là khúc tráng ca về tình cảm gia đình, tình cha con, tình vợ chồng sâu sắc và thắm thiết.
Rồi người chồng hy sinh khi trực thăng Mỹ nã đạn điên cuồng xuống cánh đồng, người vợ bắn cháy chiếc trực thăng và tiếp tục tham gia kháng chiến để trả thù cho gia đình.
Vẻn vẹn trong khoảng không gian cánh đồng hoang, xuyên suốt bộ phim là sự giằng co chiến đấu, giữa một bên là gia đình nhỏ bé nhưng đầm ấm của Ba Đô, với cảnh vợ chồng âu yếm nhau và tiếng cười của đứa con với một bên là cảnh gầm rú và bắn phá khốc liệt của máy bay được trang bị đầy súng đạn.
Những hình ảnh đối nghịch không cân xứng ấy, đã viết nên huyền thoại về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của cả dân tộc trong thế kỷ 20.
Bình luận