(VTC News) - Tổ tiên người Nùng giải thích nguyên nhân của nạn Đại hồng thủy chính là do con người giết rừng, báng bổ nơi trú ngụ của thần linh.
Kỳ 3 (kỳ cuối): Triết lý giữ rừng
Trong khi những con người của thế giới hiện đại sau cả ngàn năm giết rừng kiếm ăn, đến giờ mới ngộ ra rằng, giết rừng là tự giết mình, thì với đồng bào Nùng, từ hàng vạn năm trước, họ đã hiểu được triết lý đó.
Bằng chứng là trong những bài cúng mà ông Lù Vần Xẻng, người trông rừng cấm Pờ Ly Ngài (Hoàng Su Phì, Hà Giang) đọc cho tôi nghe, như những áng văn cổ, đều hiện diện những truyền thuyết về cơn Đại hồng thủy hủy diệt cả thế giới.
Trong bài cúng rừng mà thầy cúng Lù Vần Xẻng đọc cho tôi nghe, tổ tiên người Nùng giải thích nguyên nhân của nạn Đại hồng thủy chính là do con người giết rừng, báng bổ nơi trú ngụ của thần linh.
Trong cơn Đại hồng thủy đó, chỉ có hai anh em nhà nọ sống sót nhờ chui vào chiếc trống đồng (có truyền thuyết nói chui vào quả bầu bà tiên cho) và nổi nênh trên sóng nước. Nước rút đi, không còn ai trên trái đất sống sót, một vị thần xui khiến hai anh em lấy nhau. Hôn nhân cận huyết nên họ đẻ ra cục thịt quái thai.
Người cha đau khổ, chặt con thành nhiều khúc, ném đi khắp ngả. Không ngờ, những miếng thịt đó lại sinh ra con người, rồi mỗi con người mang một dòng họ, nhưng chung một gốc tích.
Từ huyền thoại đó, tổ tộc người Nùng mới ngẫm ra rằng, không thể phá rừng được. Phá rừng chính là báng bổ thần linh. Thế là, đời nọ nối tiếp đời kia, người Nùng coi rừng là Mẹ, rừng sinh ra con người, nuôi dưỡng và bảo vệ con người.
Từ thời thượng cổ, bà con không được học, không biết con chữ, không hiểu nguyên lý xoay vần của tạo hóa như các nhà khoa học, nhưng họ đã hiểu được nguyên lý rất đơn giản: giữ rừng là giữ nguồn nước, giữ rừng để cản dòng lũ… Để giữ được rừng, đồng bào làm lễ cúng rừng và nguyện giữ trọn lời thề với thần rừng linh thiêng.
Lễ cúng rừng cấm diễn ra mỗi năm hai lần, trong đó, ngày Thìn tháng 2 âm lịch là lễ cúng chính, còn ngày Thìn tháng 6 âm lịch là lễ cúng phụ. Lễ cúng chính là lời hứa bảo vệ rừng của dân bản và cầu thần rừng bảo vệ dân bản, còn lễ cúng phụ là báo cáo với thần rừng kết quả sản xuất trong thời gian qua.
Lễ cúng vào tháng hai diễn ra cực kỳ trang nghiêm, còn lễ cúng tháng 6 đơn giản hơn và thiên về vui chơi. Trong lễ cúng rừng tháng 6, bà con tổ chức nhiều trò chơi như ném còn, đánh xèng, trai gái hát giao duyên.
Người chủ trì buổi lễ cúng rừng cấm Pờ Ly Ngài là thầy cúng Lù Vần Xẻng. Ông Xẻng đã có 30 năm trông ngôi chùa thiêng cùng khu rừng cấm này. Để được làm người trông chùa thiêng, cai quản rừng cấm, ông thầy cúng phải là người cực kỳ có uy tín, mẫu mực, là tấm gương của dân bản. Gia đình ông phải hạnh phúc. Vợ chồng, con cái không được cãi nhau và không bao giờ xích mích với hàng xóm thì mới làm người trông rừng thiêng được.
Ngoài ra, thầy cúng phải là người cực kỳ thông minh. Chỉ học truyền miệng từ cha ông mà ông Xẻng thuộc những bài cúng làu làu. Ông có thể đọc liền một mạch mấy ngày mới hết. Những bài cúng của ông nếu viết ra sách phải dày mấy trăm trang. Tất cả những bài cúng đều là truyền miệng, vì tổ tiên người Nùng bị thất lạc mất chữ, nên không ghi chép lại được.
Mỗi năm thầy cúng được dân bản cấp 90kg thóc gọi là công trông rừng cấm. Khu rừng cấm và ngôi chùa thiêng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của 4 bản thuộc xã Pờ Ly Ngài, gồm Chàng Chảy, Pô Chuông, Na Vang, Cốc Mươi. Ngoài ra, 2 bản khác xa xôi, hiểm trở cũng có rừng cấm riêng, là bản Tà Đản và Hô Sán.
Trước ngày cúng rừng, suốt 13 ngày, dân bản không được làm bất cứ việc gì. Và sau ngày cúng rừng người dân cũng phải ăn chơi tiếp 7 ngày nữa. Nếu ai đi làm, sẽ bị phạt 1 con trâu để tạ lỗi với thần rừng. Kể cả các lãnh đạo xã, nếu là người trong bản, cũng phải nghỉ làm.
Trong những ngày đó, các loài vật đều bị nhốt, không con vật nào được chạy lung tung. Trước khi vào rừng làm lễ cúng, dân bản phải tắm rửa sạch sẽ mấy ngày liền, ngày nào cũng tắm vài lần. Vợ chồng cũng kiêng ngủ với nhau để giữ cho thân, tâm trong sạch.
Trong khu rừng cấm chung của 4 bản này có 2 ngôi đền, lại được chia làm 2 rừng. Nghĩa là 2 rừng, 2 đền, gộp làm một và thuộc sự quản lý của 4 bản. Rừng Pô Chuông là vợ, rừng Chàng Chảy là chồng. Phải cúng rừng vợ trước, rồi mới cúng rừng chồng. Mặc dù lúc cúng rừng, đàn bà con gái không được lại gần đền, nhưng đàn bà con gái lại được hưởng lộc trước, đàn ông ăn sau. Phải chăng đây là dấu ấn của chế độ mẫu hệ thời đàn ông săn bắn, đàn bà hái lượm?
Theo lời các cụ già trong xã Pờ Ly Ngài, có một năm, cúng rừng chồng trước, cúng rừng vợ sau, lập tức năm đó mùa màng thất bát, khô hạn khắp nơi, hoa màu bị sâu bệnh cắn nát. Cả năm dân bản không có gì ăn, trong rừng lại sinh ra thú giữ, hổ báo, rắn rết cắn chết rất nhiều người. Từ bấy, thầy cúng không dám làm trái phong tục thần rừng truyền dạy nữa.
Lễ cúng rừng diễn ra rất trật tự, trang trọng. Thầy cúng cúi lạy ở cửa rừng, xin phép thần cho con cháu vào lễ bái. Sau đó mới tiến sâu vào trong rừng, tìm đến đền thiêng. Dân bản xếp hàng, rất trật tự đi sau thầy cúng.
Trong quá trình tiến vào rừng cấm, không ai được nói năng, cười đùa. Những ông thầy mo phục vụ tang lễ, ma chay không được vào rừng cấm, vì theo quan niệm, họ là người của thế giới ma, còn rừng cấm là thế giới của thần linh. Phụ nữ có thai cũng không được vào rừng. Lý do vì sao thì thầy cúng Xẻng cũng không giải thích được. Cha ông truyền dạy thế nào thì làm theo như vậy.
Mâm lễ được bày dưới gốc cây lớn trước chùa gồm rượu, thịt, một bát muối, con gà trống đỏ còn sống, con lợn đen được buộc vào cọc tre. Phía xa, một con trâu béo buộc vào cây. Con trâu béo này là đóng góp tự nguyện của dân bản.
Đồng bào quỳ lạy khắp rừng, úp mặt vào gốc cây to và không nói gì, chỉ tưởng nhớ đến thần rừng, thầm cầu mong thần phù hộ cho cho đất nước bình yên, cho gia đình, làng bản no ấm. Có một điều rất lạ, trong các bài cúng, bài khấn của đồng bào Nùng, đều có nội dung cầu phúc cho dân tộc, cho đất nước trước, rồi mới cho làng bản, cho gia đình và bản thân.
Lễ cúng diễn ra gồm 3 hồi, mỗi hồi dài chừng một tiếng. Hồi thứ nhất có tên “Cúm khẩu nắm khẩu na” (Cầu lộc bảo vệ mùa màng), hồi thứ hai là “Cúm tôi tủ” (bảo vệ gia súc, gia cầm) và hồi thứ ba là “Cúm tỉ con”, tức cầu Thần Rừng bảo vệ con người và toàn thể thế giới. Ông thầy cúng Lù Vần Xẻng tay cầm cành vầu lòa xòa lá đi vòng quanh gốc cây, khua đi khua lại.
Sau bài cúng thứ nhất, lợn gà được mổ, trâu bị phanh thây. Máu tươi đem cúng dâng thần và tưới khắp khu rừng cấm. Lợn luộc nguyên con và các món ngon từ trâu như tim, gan, thịt bắp được nấu chín, bày trên bàn thờ cho thần hưởng thụ.
Nghe xong "lời dạy" của thần rừng do ông Xẻng đọc, dân bản cúi lạy các gốc cây lớn, và thề trước thần rừng. Lời thề được thầy cúng đọc trước, dân bản đọc theo. Nội dung của lời thề giữ rừng đại để: Xin mời thần rừng, thần trời, thần đất về hưởng rượu, hưởng thịt và phù hộ cho đất nước mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Bà con 4 bản gồm Chàng Chảy, Pô Chuông, Na Vang, Cốc Mươi xin hứa sẽ giữ rừng thật tốt. Ai săn bắn, chặt cây trong rừng sẽ bị trừng phạt…
Và cũng có một điều khá vui trong lời thề, đó là lời “mặc cả” với thần linh: “Dân bản kính trọng thần rừng, chăm sóc rừng tốt tươi thì thần phải bảo hộ cho cuộc sống của bà con, cho đất tốt, cho nước đủ, không gây lũ, sấm sét không đánh chết người, lợn đẻ nhiều như lợn rừng, trâu nhiều như hươu nai, bò đông như dê núi…”.
Lời “nhắn nhủ” của thần rừng về mức độ trừng phạt cũng rất cụ thể. Nếu ai lấy củi khô, lấy một củ măng thì bị phạt 5kg thóc, chặt cây nhỏ bị phạt gà, cây to hơn phạt lợn, cây cổ thụ, bị phạt trâu. Bắn bất kỳ con thú nào cũng sẽ bị phạt lợn hoặc phạt một con trâu…
Thầy cúng sẽ làm lễ xin lỗi thần rừng và yêu cầu người xâm phạm rừng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khung hình phạt này không phải do nhân dân thỏa thuận đề ra, cũng không phải do thầy cúng đặt ra, mà trong bài cúng, trong phần lời thề với thần rừng từ ngàn đời nay nói thế và cứ theo khung hình phạt đó mà áp dụng.
Ngoài ra còn rất nhiều quy định nữa, như đi gần rừng cấm không được nói to, không nói bậy. Thậm chí, ai muốn tiểu tiện, phải đứng cách rừng cấm 100m và quay mặt về hướng khác. Trâu, bò, các vật nuôi cũng không được bén mảng đến rừng cấm. Rừng cấm là nơi hoàn toàn sạch sẽ, linh thiêng.
Người Nùng còn quan niệm, khi cha mẹ, ông bà, tổ tiên chết đi, linh hồn được thần rừng che chở và về ngự trên những cây đa. Do đó, cúng rừng cũng chính là lễ cúng lớn nhất dành cho tổ tiên của mình. Nếu tổ tiên ngự ở gốc cây, thì làm sao con người dám xâm phạm.
Thế mới biết, trình độ bảo vệ rừng của người Nùng quả cao siêu. Đã là rừng thì không thể xâm phạm bất cứ một thứ gì. Khu rừng của họ không những linh thiêng với người bản địa mà ngay cả những bộ tộc khác, kể cả đám lâm tặc cũng phải kiêng nể, không dám lại gần, chứ đừng nói vào rừng xẻ gỗ.
Trong quá trình lang thang khắp huyện Hoàng Su Phì, tôi nhận thấy rằng, ngoài khu vực quanh chân đỉnh Tây Côn Lĩnh, núi quá cao, không có đường đi lối lại, rừng nguyên sinh chỉ còn ở những khu rừng cấm. Khắp nơi rừng đã bị triệt hạ rất khốc liệt. Còn rừng cấm, thì còn rừng.
Dương Phạm- H.Minh
Kỳ 3 (kỳ cuối): Triết lý giữ rừng
Trong khi những con người của thế giới hiện đại sau cả ngàn năm giết rừng kiếm ăn, đến giờ mới ngộ ra rằng, giết rừng là tự giết mình, thì với đồng bào Nùng, từ hàng vạn năm trước, họ đã hiểu được triết lý đó.
Bằng chứng là trong những bài cúng mà ông Lù Vần Xẻng, người trông rừng cấm Pờ Ly Ngài (Hoàng Su Phì, Hà Giang) đọc cho tôi nghe, như những áng văn cổ, đều hiện diện những truyền thuyết về cơn Đại hồng thủy hủy diệt cả thế giới.
Trong bài cúng rừng mà thầy cúng Lù Vần Xẻng đọc cho tôi nghe, tổ tiên người Nùng giải thích nguyên nhân của nạn Đại hồng thủy chính là do con người giết rừng, báng bổ nơi trú ngụ của thần linh.
Trong cơn Đại hồng thủy đó, chỉ có hai anh em nhà nọ sống sót nhờ chui vào chiếc trống đồng (có truyền thuyết nói chui vào quả bầu bà tiên cho) và nổi nênh trên sóng nước. Nước rút đi, không còn ai trên trái đất sống sót, một vị thần xui khiến hai anh em lấy nhau. Hôn nhân cận huyết nên họ đẻ ra cục thịt quái thai.
Thầy cúng Lù Vần Xẻng trước ngôi đền thiêng trong rừng cấm |
Người cha đau khổ, chặt con thành nhiều khúc, ném đi khắp ngả. Không ngờ, những miếng thịt đó lại sinh ra con người, rồi mỗi con người mang một dòng họ, nhưng chung một gốc tích.
Từ huyền thoại đó, tổ tộc người Nùng mới ngẫm ra rằng, không thể phá rừng được. Phá rừng chính là báng bổ thần linh. Thế là, đời nọ nối tiếp đời kia, người Nùng coi rừng là Mẹ, rừng sinh ra con người, nuôi dưỡng và bảo vệ con người.
Từ thời thượng cổ, bà con không được học, không biết con chữ, không hiểu nguyên lý xoay vần của tạo hóa như các nhà khoa học, nhưng họ đã hiểu được nguyên lý rất đơn giản: giữ rừng là giữ nguồn nước, giữ rừng để cản dòng lũ… Để giữ được rừng, đồng bào làm lễ cúng rừng và nguyện giữ trọn lời thề với thần rừng linh thiêng.
Lễ cúng rừng cấm diễn ra mỗi năm hai lần, trong đó, ngày Thìn tháng 2 âm lịch là lễ cúng chính, còn ngày Thìn tháng 6 âm lịch là lễ cúng phụ. Lễ cúng chính là lời hứa bảo vệ rừng của dân bản và cầu thần rừng bảo vệ dân bản, còn lễ cúng phụ là báo cáo với thần rừng kết quả sản xuất trong thời gian qua.
Lễ cúng vào tháng hai diễn ra cực kỳ trang nghiêm, còn lễ cúng tháng 6 đơn giản hơn và thiên về vui chơi. Trong lễ cúng rừng tháng 6, bà con tổ chức nhiều trò chơi như ném còn, đánh xèng, trai gái hát giao duyên.
Người chủ trì buổi lễ cúng rừng cấm Pờ Ly Ngài là thầy cúng Lù Vần Xẻng. Ông Xẻng đã có 30 năm trông ngôi chùa thiêng cùng khu rừng cấm này. Để được làm người trông chùa thiêng, cai quản rừng cấm, ông thầy cúng phải là người cực kỳ có uy tín, mẫu mực, là tấm gương của dân bản. Gia đình ông phải hạnh phúc. Vợ chồng, con cái không được cãi nhau và không bao giờ xích mích với hàng xóm thì mới làm người trông rừng thiêng được.
Ngoài ra, thầy cúng phải là người cực kỳ thông minh. Chỉ học truyền miệng từ cha ông mà ông Xẻng thuộc những bài cúng làu làu. Ông có thể đọc liền một mạch mấy ngày mới hết. Những bài cúng của ông nếu viết ra sách phải dày mấy trăm trang. Tất cả những bài cúng đều là truyền miệng, vì tổ tiên người Nùng bị thất lạc mất chữ, nên không ghi chép lại được.
Cây đa khổng lồ trong rừng cấm |
Mỗi năm thầy cúng được dân bản cấp 90kg thóc gọi là công trông rừng cấm. Khu rừng cấm và ngôi chùa thiêng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của 4 bản thuộc xã Pờ Ly Ngài, gồm Chàng Chảy, Pô Chuông, Na Vang, Cốc Mươi. Ngoài ra, 2 bản khác xa xôi, hiểm trở cũng có rừng cấm riêng, là bản Tà Đản và Hô Sán.
Trước ngày cúng rừng, suốt 13 ngày, dân bản không được làm bất cứ việc gì. Và sau ngày cúng rừng người dân cũng phải ăn chơi tiếp 7 ngày nữa. Nếu ai đi làm, sẽ bị phạt 1 con trâu để tạ lỗi với thần rừng. Kể cả các lãnh đạo xã, nếu là người trong bản, cũng phải nghỉ làm.
Trong những ngày đó, các loài vật đều bị nhốt, không con vật nào được chạy lung tung. Trước khi vào rừng làm lễ cúng, dân bản phải tắm rửa sạch sẽ mấy ngày liền, ngày nào cũng tắm vài lần. Vợ chồng cũng kiêng ngủ với nhau để giữ cho thân, tâm trong sạch.
Trong khu rừng cấm chung của 4 bản này có 2 ngôi đền, lại được chia làm 2 rừng. Nghĩa là 2 rừng, 2 đền, gộp làm một và thuộc sự quản lý của 4 bản. Rừng Pô Chuông là vợ, rừng Chàng Chảy là chồng. Phải cúng rừng vợ trước, rồi mới cúng rừng chồng. Mặc dù lúc cúng rừng, đàn bà con gái không được lại gần đền, nhưng đàn bà con gái lại được hưởng lộc trước, đàn ông ăn sau. Phải chăng đây là dấu ấn của chế độ mẫu hệ thời đàn ông săn bắn, đàn bà hái lượm?
Theo lời các cụ già trong xã Pờ Ly Ngài, có một năm, cúng rừng chồng trước, cúng rừng vợ sau, lập tức năm đó mùa màng thất bát, khô hạn khắp nơi, hoa màu bị sâu bệnh cắn nát. Cả năm dân bản không có gì ăn, trong rừng lại sinh ra thú giữ, hổ báo, rắn rết cắn chết rất nhiều người. Từ bấy, thầy cúng không dám làm trái phong tục thần rừng truyền dạy nữa.
Dãy Đản Kháo |
Lễ cúng rừng diễn ra rất trật tự, trang trọng. Thầy cúng cúi lạy ở cửa rừng, xin phép thần cho con cháu vào lễ bái. Sau đó mới tiến sâu vào trong rừng, tìm đến đền thiêng. Dân bản xếp hàng, rất trật tự đi sau thầy cúng.
Trong quá trình tiến vào rừng cấm, không ai được nói năng, cười đùa. Những ông thầy mo phục vụ tang lễ, ma chay không được vào rừng cấm, vì theo quan niệm, họ là người của thế giới ma, còn rừng cấm là thế giới của thần linh. Phụ nữ có thai cũng không được vào rừng. Lý do vì sao thì thầy cúng Xẻng cũng không giải thích được. Cha ông truyền dạy thế nào thì làm theo như vậy.
Mâm lễ được bày dưới gốc cây lớn trước chùa gồm rượu, thịt, một bát muối, con gà trống đỏ còn sống, con lợn đen được buộc vào cọc tre. Phía xa, một con trâu béo buộc vào cây. Con trâu béo này là đóng góp tự nguyện của dân bản.
Đồng bào quỳ lạy khắp rừng, úp mặt vào gốc cây to và không nói gì, chỉ tưởng nhớ đến thần rừng, thầm cầu mong thần phù hộ cho cho đất nước bình yên, cho gia đình, làng bản no ấm. Có một điều rất lạ, trong các bài cúng, bài khấn của đồng bào Nùng, đều có nội dung cầu phúc cho dân tộc, cho đất nước trước, rồi mới cho làng bản, cho gia đình và bản thân.
Lễ cúng diễn ra gồm 3 hồi, mỗi hồi dài chừng một tiếng. Hồi thứ nhất có tên “Cúm khẩu nắm khẩu na” (Cầu lộc bảo vệ mùa màng), hồi thứ hai là “Cúm tôi tủ” (bảo vệ gia súc, gia cầm) và hồi thứ ba là “Cúm tỉ con”, tức cầu Thần Rừng bảo vệ con người và toàn thể thế giới. Ông thầy cúng Lù Vần Xẻng tay cầm cành vầu lòa xòa lá đi vòng quanh gốc cây, khua đi khua lại.
Sau bài cúng thứ nhất, lợn gà được mổ, trâu bị phanh thây. Máu tươi đem cúng dâng thần và tưới khắp khu rừng cấm. Lợn luộc nguyên con và các món ngon từ trâu như tim, gan, thịt bắp được nấu chín, bày trên bàn thờ cho thần hưởng thụ.
Nghe xong "lời dạy" của thần rừng do ông Xẻng đọc, dân bản cúi lạy các gốc cây lớn, và thề trước thần rừng. Lời thề được thầy cúng đọc trước, dân bản đọc theo. Nội dung của lời thề giữ rừng đại để: Xin mời thần rừng, thần trời, thần đất về hưởng rượu, hưởng thịt và phù hộ cho đất nước mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Bà con 4 bản gồm Chàng Chảy, Pô Chuông, Na Vang, Cốc Mươi xin hứa sẽ giữ rừng thật tốt. Ai săn bắn, chặt cây trong rừng sẽ bị trừng phạt…
Và cũng có một điều khá vui trong lời thề, đó là lời “mặc cả” với thần linh: “Dân bản kính trọng thần rừng, chăm sóc rừng tốt tươi thì thần phải bảo hộ cho cuộc sống của bà con, cho đất tốt, cho nước đủ, không gây lũ, sấm sét không đánh chết người, lợn đẻ nhiều như lợn rừng, trâu nhiều như hươu nai, bò đông như dê núi…”.
Lời “nhắn nhủ” của thần rừng về mức độ trừng phạt cũng rất cụ thể. Nếu ai lấy củi khô, lấy một củ măng thì bị phạt 5kg thóc, chặt cây nhỏ bị phạt gà, cây to hơn phạt lợn, cây cổ thụ, bị phạt trâu. Bắn bất kỳ con thú nào cũng sẽ bị phạt lợn hoặc phạt một con trâu…
Ngôi đền thiêng giữa rừng cấm |
Thầy cúng sẽ làm lễ xin lỗi thần rừng và yêu cầu người xâm phạm rừng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khung hình phạt này không phải do nhân dân thỏa thuận đề ra, cũng không phải do thầy cúng đặt ra, mà trong bài cúng, trong phần lời thề với thần rừng từ ngàn đời nay nói thế và cứ theo khung hình phạt đó mà áp dụng.
Ngoài ra còn rất nhiều quy định nữa, như đi gần rừng cấm không được nói to, không nói bậy. Thậm chí, ai muốn tiểu tiện, phải đứng cách rừng cấm 100m và quay mặt về hướng khác. Trâu, bò, các vật nuôi cũng không được bén mảng đến rừng cấm. Rừng cấm là nơi hoàn toàn sạch sẽ, linh thiêng.
Người Nùng còn quan niệm, khi cha mẹ, ông bà, tổ tiên chết đi, linh hồn được thần rừng che chở và về ngự trên những cây đa. Do đó, cúng rừng cũng chính là lễ cúng lớn nhất dành cho tổ tiên của mình. Nếu tổ tiên ngự ở gốc cây, thì làm sao con người dám xâm phạm.
Thế mới biết, trình độ bảo vệ rừng của người Nùng quả cao siêu. Đã là rừng thì không thể xâm phạm bất cứ một thứ gì. Khu rừng của họ không những linh thiêng với người bản địa mà ngay cả những bộ tộc khác, kể cả đám lâm tặc cũng phải kiêng nể, không dám lại gần, chứ đừng nói vào rừng xẻ gỗ.
Trong quá trình lang thang khắp huyện Hoàng Su Phì, tôi nhận thấy rằng, ngoài khu vực quanh chân đỉnh Tây Côn Lĩnh, núi quá cao, không có đường đi lối lại, rừng nguyên sinh chỉ còn ở những khu rừng cấm. Khắp nơi rừng đã bị triệt hạ rất khốc liệt. Còn rừng cấm, thì còn rừng.
Dương Phạm- H.Minh
Bình luận