Phóng sự

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh

Thứ Ba, 23/12/2025 06:50:00 +07:00

(VTC News) - Từ tiếng chuông chùa Trầm đêm 19/12/1946 đến tiếng chuông chùa Sài Gòn trưa 30/4/1975, 30 năm đạo và đời cùng ngân lên khúc ca khải hoàn của dân tộc.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 1
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 2

Lắng nghe Podcast: "Hành trình từ bi trong hai cuộc kháng chiến"

Đêm đông 19/12/1946. Hà Nội chìm trong khói lửa. Tại chùa Trầm (Hà Nội), tiếng chuông chùa không còn giữ nhịp điệu khoan thai thường nhật mà dồn dập hòa cùng tiếng súng mở màn Toàn quốc kháng chiến.

Chính tại hang đá cạnh chùa, Đài Tiếng nói Việt Nam đã bí mật phát đi Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ".

Lời hịch cứu nước ấy đã vang vọng đến tận chốn thiền môn. Chỉ hai tháng sau, ngày 27/2/1947, tại chùa Cổ Lễ (Nam Định), một buổi lễ phát nguyện “vô tiền khoáng hậu” đã diễn ra dưới sự chủ trì của Hòa thượng Thích Thế Long.

Trước Tam bảo uy nghiêm, 27 vị Tăng Ni trẻ đã cởi bỏ chiếc áo nâu sồng, chuẩn bị khoác lên mình bộ quân phục vệ quốc, đồng thanh tuyên thệ: “Cởi áo cà sa, khoác chiến bào”. Họ tạm biệt tiếng mõ, tiếng kinh để cầm súng ra chiến trường.

Trong số ấy, 12 vị đã ngã xuống, hóa thành những “đóa sen bất tử” của Phật giáo Việt Nam. Sự kiện Cổ Lễ 1947 đã trở thành biểu tượng rực rỡ cho tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp: Coi cứu nước là hạnh nguyện từ bi lớn nhất, xem việc diệt ác trừ gian là hành Bồ-tát đạo thiết thực nhất.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 3
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 4

Trong 27 nhà sư “cởi áo cà-sa khoác chiến bào” hôm ấy có Đại đức Thích Pháp Lữ. Từ nhà sư trở thành chiến sĩ, ông làm Đội trưởng đội võ trang tuyên truyền ở Xuân Trường - Bùi Chu (nay là Ninh Bình), vừa vận động nhân dân, vừa hoạt động bí mật giữa vùng địch kiểm soát.

Trong kháng chiến chống Mỹ, ông tiếp tục binh nghiệp, là Chính ủy Trung đoàn 542 - Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Khi đất nước hòa bình, vị Đại tá về hưu ấy lại trở về với đạo, miệt mài viết, giảng pháp, với niềm tin giản dị: “Tu hành không nhất thiết ở chùa, hộ quốc an dân giữa đời thường cũng là tu hành”.

Câu chuyện của Đại đức Thích Pháp Lữ - Đại tá Đinh Thế Hinh là minh chứng sinh động cho tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam: khi Tổ quốc lâm nguy, người tu sĩ không rút lui vào tĩnh lặng, mà “cởi áo cà sa, khoác chiến bào vì nước vì dân” để lòng từ bi không chỉ thắp sáng nơi thiền môn, mà soi rọi giữa lửa đạn.

Không những thế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tiếp tục có lớp lớp Tăng Ni tiếp nối bước chân cha anh lên đường nhập ngũ, tham gia thanh niên xung phong, chiến đấu dũng cảm, quên mình hy sinh vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Tinh thần “cởi áo cà-sa, khoác chiến bào” lại được tiếp nối.

Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam thân yêu” vang lên khắp các ga tàu, bến cảng. Khi bom Mỹ dội xuống, chùa lại hóa thành hậu cứ, trạm quân y, kho lương; và khi cần, tấm cà sa cũng trở thành áo giáp cho Tổ quốc, nhà sư thành người lính chiến đấu vì hòa bình.

Ở cả hai cuộc chiến, mái chùa miền Bắc vẫn là nơi tiếng chuông vừa cầu an, vừa gọi toàn dân đứng dậy. Đó chính là tinh thần “hộ quốc an dân” đi qua hai lần lửa đạn mà vẫn không mất đi gốc rễ từ bi và trí tuệ.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 5
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 6

Nếu ở miền Bắc dấy lên phong trào “Cởi áo cà sa, khoác chiến bào” thì miền Nam, ngọn lửa đấu tranh của Phật giáo lại bùng lên bằng lòng từ bi can đảm và tinh thần bất khuất trước bạo quyền.

Khi bạo quyền dùng dùi cui, súng đạn để hủy diệt Chánh pháp, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã dùng ngọn lửa của từ bi và nguyện lực để soi sáng lương tri. Sáng 11/6/1963, giữa ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt (Sài Gòn), Ngài ngồi kiết già giữa đường, chắp tay thanh thản tụng niệm dù thân mình đang bốc cháy.

Hình ảnh ấy đi khắp thế giới. Nó không phải là tiếng gào của tuyệt vọng, mà là tiếng chuông của tỉnh thức. Ngọn lửa xăng bùng lên dữ dội, thiêu đốt thân xác phàm trần, nhưng không thể thiêu rụi sự định tĩnh phi thường của bậc chân tu. Ngài đã lấy thân mình làm một ngọn đuốc. Không để thiêu đốt ai, mà để soi sáng. Không để hận thù trỗi dậy, mà để tình thương lên tiếng.

Hình ảnh Ngài ngồi tĩnh tại trong biển lửa đã chấn động địa cầu. Cái chết của Ngài là tiếng chuông cảnh tỉnh lương tri nhân loại. Ngài đã lấy thân mình làm ngọn đuốc để xua tan bóng tối vô minh, lấy tình thương để hóa giải bạo tàn. Bức ảnh lịch sử ấy đã khiến cả thế giới phải nghiêng mình.

Khi nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1964, Mục sư Martin Luther King Jr. đã nhắc đến tinh thần bất bạo động của Hòa thượng Thích Quảng Đức như một lời chứng đanh thép rằng "tình thương và sự hy sinh có thể làm rung chuyển cả hệ thống áp bức mạnh mẽ nhất”.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 7
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 8

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 9
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 10

Song hành cùng ngọn lửa bi hùng ấy là những "đóa sen" kiên cường trong lòng địch. Ni trưởng Huỳnh Liên, người sáng lập Ni giới Hệ phái Khất sĩ. Với lời thệ nguyện: "Nguyện dâng hiến trọn đời mình/Cho nguồn đạo pháp, cho tình quê hương", Ni trưởng đã biến Tịnh xá Ngọc Phương thành "pháo đài" của phong trào đấu tranh chính trị.

Người dân Sài Gòn gọi các bà, các cô là "đội quân đầu tròn". Những người phụ nữ chân yếu tay mềm, trong tay không một tấc sắt, nhưng dám xuống đường đối mặt với dùi cui, hơi cay, xe bọc thép. Khi Tịnh xá bị vây hãm, Ni trưởng đã dựng "lò thiêu dã chiến", sẵn sàng vị pháp thiêu thân. Giữa khói lửa đô thành, bà vừa làm thơ, vừa che giấu cán bộ, vừa đấu tranh đòi hòa bình. Bà chính là hiện thân của một Bồ-tát giữa đời thường: Dũng cảm như một chiến binh nhưng bao dung như một người mẹ.

Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, Ni trưởng lại tiếp tục hành trình cứu trợ người nghèo, mở lớp học, chăm sóc trẻ mồ côi. Bà không chỉ là bậc chân tu, mà là một Bồ-tát giữa đời, mang ngọn lửa từ bi soi sáng thời đại.

Người ta bảo, nếu Hòa thượng Quảng Đức là ngọn lửa của bi hùng, thì Huỳnh Liên là ngọn lửa của tình thương - âm ỉ mà bất diệt.

Sâu trong lòng Sài Gòn, ít ai ngờ những ngôi chùa tĩnh mịch lại là những căn cứ địa kiên cường nhất. Chùa Tam Bảo (đường Lò Siêu) là một huyền thoại như thế. Tại đây, Hòa thượng Thích Viên Hảo và Ni sư Diệu Thông ban ngày tụng kinh niệm Phật, ban đêm hoạt động trong mạng lưới Biệt động Sài Gòn.

Hòa thượng Viên Hảo đã đào hầm bí mật ngay dưới chân tượng Phật để cất giấu vũ khí, tài liệu. Tiếng mõ tụng kinh trở thành ám hiệu liên lạc, khói hương trầm che giấu những cuộc họp quan trọng. Khi bị bắt và đày ra Phú Quốc, Hòa thượng vẫn dùng giáo lý nhà Phật để giữ vững tấm lòng kiên trung với cách mạng và vực dậy tinh thần cho bạn tù.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 11
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 12

Còn Ni sư Diệu Thông, dưới vỏ bọc một sư cô hiền lành, đã biến giỏ nhang đèn thành nơi cất giấu mệnh lệnh cho lực lượng biệt động. Bị địch bắt, tra tấn dã man, bà chỉ có một câu trả lời duy nhất: “Tôi chỉ biết niệm Phật và yêu nước”.

Hòa bình lập lại, những "chiến sĩ áo nâu" ấy lại lặng lẽ trở về với kinh kệ, quét lá sân chùa như chưa từng đi qua dông bão.

Cùng thời gian ấy, nhiều tăng sĩ miền Nam đã rời đô thị, bí mật ra vùng giải phóng. Hàng trăm tăng ni khác đã khoác áo nâu hành Bồ-tát đạo giữa chiến khu, làm người cán bộ, chiến sĩ cách mạng, tham gia Mặt trận Dân tộc Giải Phóng.

Những ngôi chùa Pháp Minh (Long An), Tam Bảo (Cần Thơ), Phật Bửu (Sài Gòn) trở thành nơi họp bàn, nuôi giấu thương binh, in tài liệu, che chở cán bộ. Trong khói lửa, những tiếng chuông chùa hòa cùng tiếng súng, cùng nhịp tim của đất nước - nơi từ bi và lòng yêu nước không còn ranh giới.

Nhìn lại phong trào Phật giáo miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, người ta thấy rõ: đạo và đời đã hòa làm một. Từ ngọn lửa Thích Quảng Đức, lời nguyện Huỳnh Liên, nhiệm vụ biệt động… tất cả đều cùng vang lên một hình ảnh: Từ bi không đứng ngoài cuộc; cứu khổ là cứu nước. Tăng Ni là chiến sĩ, là những vị Bồ-tát nhập thế.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 13
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 14

Ngày 30/4/1975, đoàn xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập. Giữa niềm hân hoan vỡ òa của ngày non sông liền một dải, chuông chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm... đồng loạt ngân vang, hòa cùng tiếng chuông chùa Quán Sứ, chùa Trầm ở miền Bắc.

Tiếng chuông ấy là dấu chấm son hoàn mỹ khép lại 30 năm trường chinh gian khổ của cả dân tộc và Đạo pháp. Đó là tiếng vọng của hòa bình, là nốt nhạc vui báo hiệu một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên Bắc Nam sum họp, Đạo và Đời cùng chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh.

Hành trình từ "cởi áo cà sa" ra trận đến ngày hội ngộ thống nhất Phật giáo (1981) là minh chứng hùng hồn nhất cho chân lý: Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, chưa bao giờ có niềm vui nào tách rời niềm vui của Nhân dân.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 15
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 16

Sau ngày thống nhất, nhiều ngôi chùa trở thành trạm cứu tế, nơi an táng liệt sĩ, chăm sóc thương binh, nuôi trẻ mồ côi. Tăng Ni từ chiến khu trở về, gặp lại nhau trong niềm vui hòa hợp.

Phong trào “Phật giáo kiến thiết đất nước”, “Phật giáo vì hòa bình” lan rộng khắp ba miền. Tại TP.HCM, Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước được thành lập, quy tụ 10 hệ phái lớn, đặt nền móng cho tiến trình hiệp thương thống nhất.

Ngày 8/11/1981, tại Hà Nội, chư tôn đức đại diện 10 tổ chức, hệ phái Phật giáo trên toàn quốc họp Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, khai sinh Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên một đất nước toàn vẹn - sự kiện lịch sử chấm dứt gần nửa thế kỷ hoạt động riêng rẽ. Phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” được khẳng định, mở ra thời kỳ mới: Phật giáo đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc xây dựng hòa bình và phát triển.

30 năm chiến tranh, 30 năm chuông chùa không tắt. Từ tiếng chuông Trầm năm 1946 đến tiếng chuông chùa cả nước năm 1975 là quãng đường mà Phật giáo Việt Nam đi trọn một vòng của lịch sử: từ đạo vào đời, từ khổ đau đến hòa bình.

Hòa bình trở lại, tiếng chuông ấy vẫn ngân - không còn là tiếng gọi ra trận, mà là lời cầu cho đất nước hồi sinh, là tín hiệu để Tăng Ni, Phật tử cùng người dân cùng dựng xây đất nước giàu mạnh hơn, to đẹp hơn như ước mong của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

Sự đồng hành của Phật giáo Việt Nam với cách mạng - tinh thần nhập thế - còn được khẳng định rõ nét khi chính quyền cách mạng hình thành và vận hành. Khi tiếng súng tạm lắng để nhường chỗ cho việc dựng xây thể chế, nhiều chức sắc Phật giáo đã tiếp tục bước tới, mang tinh thần nhập thế của đạo Phật đi vào chính những cơ quan trung tâm của Nhà nước mới.

Một dấu mốc đặc biệt mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc là sự hiện diện của Hòa thượng Thích Mật Thể trong Quốc hội khóa I (1946) - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc một giáo phẩm cao cấp của Tăng già Việt Nam đảm nhiệm trọng trách này ngay từ buổi đầu độc lập cho thấy Phật giáo không đứng ngoài chính quyền cách mạng, mà đã bước thẳng vào trung tâm của đời sống chính trị quốc gia.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 17
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 18

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hệ thống Phật giáo Cứu quốc hình thành và hoạt động trong lòng Mặt trận Việt Minh, rồi Mặt trận Liên Việt, đặc biệt phát triển mạnh ở Nam Bộ. Hòa thượng Thích Minh Nguyệt là một trong những gương mặt tiêu biểu, vừa lãnh đạo phong trào Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ, vừa tham gia các cơ cấu Mặt trận và chính quyền kháng chiến tại Mỹ Tho, Sài Gòn - Gia Định.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tinh thần nhập thế của Phật giáo tiếp tục được mở rộng. Nhiều tăng sĩ miền Nam rời đô thị vào chiến khu, tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Một số vị được giới thiệu tham gia các cơ quan của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam sau năm 1969, góp phần tạo nên diện mạo một chính quyền cách mạng có sự hiện diện của các tôn giáo yêu nước.

Tinh thần nhập thế của Phật giáo miền Nam được thể hiện rõ qua trường hợp Hòa thượng Thích Thiện Hào. Từ một tu sĩ hoạt động trong phong trào Phật giáo yêu nước, ông rời đô thị vào chiến khu, giữ cương vị Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận.

Sau năm 1969, khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời, Hòa thượng được mời tham gia Hội đồng Cố vấn Chính phủ. Sau ngày đất nước thống nhất, ông tiếp tục là Đại biểu Quốc hội khóa VI, Ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội thể hiện sự tiếp nối của tinh thần nhập thế từ kháng chiến sang xây dựng quốc gia trong hòa bình.

Sau ngày đất nước thống nhất, sự đồng hành giữa Phật giáo và dân tộc không dừng lại ở tinh thần phụng sự, mà từng bước được thể chế hóa trong đời sống nghị trường. Nhiều vị giáo phẩm Phật giáo, bằng uy tín đạo hạnh và sự dấn thân vì cộng đồng, đã được cử tri tín nhiệm bầu vào Quốc hội.

Trong số đó, Hòa thượng Thích Thế Long không chỉ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa VII mà còn được giao trọng trách Phó Chủ tịch Quốc hội, trực tiếp tham gia lãnh đạo cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Cùng dòng chảy ấy, Hòa thượng Thích Minh Châu để lại dấu ấn khi liên tục tham gia 4 khóa Quốc hội (VII, VIII, IX, X), như một minh chứng sinh động cho sự hiện diện lâu dài và có trách nhiệm của Phật giáo trong công cuộc xây dựng đất nước.

Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 19
Áo cà-sa trong lửa đạn chiến tranh - 20

Đến Quốc hội khóa XV, truyền thống ấy vẫn được tiếp nối một cách tự nhiên và bền bỉ. 4 vị Hòa thượng, Thượng tọa đang đảm nhiệm những trọng trách quan trọng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam đồng thời là đại biểu Quốc hội, trực tiếp tham gia xây dựng pháp luật, thực hiện quyền giám sát tối cao và chuyển tải tâm tư, nguyện vọng của cử tri đến nghị trường, góp phần làm sâu sắc thêm mối gắn bó giữa đạo pháp và dân tộc trong bối cảnh mới.

Từ Quốc hội của độc lập năm 1946 đến nghị trường của thời kỳ hội nhập hôm nay, sự hiện diện ấy cho thấy một mạch lịch sử liền lạc: Phật giáo Việt Nam không chỉ đồng hành cùng cách mạng trong chiến tranh, mà còn cùng cách mạng tham gia xây dựng thể chế và quản trị đất nước trong hòa bình.

Bình luận
vtcnews.vn