Theo cáo trạng, năm 2016, Nguyễn Thị Nguyệt (SN 1985) mua hồ sơ tạm nhập, tái xuất của Phạm Hữu Thuật (Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ XNK Đại Phát và Công ty TNHH Đầu tư kinh doanh thương mại và XNK Đại Phát) để hợp thức hoá pháp nhân rồi chuyển tiền trái phép ra nước ngoài.
Tiếp đó, Thuật và Nguyệt thỏa thuận, giá từ 30-40 triệu đồng/bộ hồ sơ tạm nhập, tái xuất để chuyển tiền trái phép ra nước ngoài. Sau đó, Nguyệt gửi thông tin công ty nhận tiền, mẫu dấu, chữ ký giám đốc công ty để hoàn thiện hợp đồng tạm nhập hàng hóa là IC điều khiển, làm thủ tục kê khai hải quan.
Thuật và Nguyệt cùng nhau góp tiền mua IC điều khiển của một người Trung Quốc có tên A Vỹ để có hàng hóa làm thủ tục tạm nhập qua cửa khẩu Móng Cái rồi sau đó tái xuất sang Trung Quốc.
Theo đó, A Vỹ chỉ định hàng hoá qua các cửa khẩu để chính đối tượng này nhận lại những kiện hàng rồi chuyển lại cho Thuật.
Cụ thể, Thuật mở 49 tờ khai tạm nhập tái xuất hàng hóa của Công ty Đầu tư kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu Đại Phát với tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu là hơn 52,3 triệu USD, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu là hơn 52,3 triệu USD.
Sau đó, bị can sử dụng công ty này để thanh toán quốc tế 48/49 hợp đồng tại 3 ngân hàng, chuyển số ngoại tệ ra nước ngoài tương ứng số tiền hơn 2.513 tỷ đồng.
Cáo buộc cho rằng, ngoài bán hồ sơ của 2 công ty Đại Phát cho Nguyệt, Thuật còn sử dụng pháp nhân Công ty TNHH MTV thương mại và du lịch XNK BDA do Thuật thành lập (nhờ người đứng tên) để hợp thức hợp đồng tạm nhập, tái xuất là IC điện tử làm hồ sơ thanh toán quốc tế, nhằm chuyển tiền trái phép từ Việt Nam ra nước ngoài.
Trong các phi vụ, Thuật là người chịu trách nhiệm làm thủ tục tái xuất hàng hóa sang Trung Quốc qua cửa khẩu Móng Cái, Quảng Ninh. Mỗi lượt làm thủ tục, Thuật khai được hưởng lợi 10 triệu đồng.
Kết quả điều tra xác định, bằng thủ đoạn và thông qua các công ty trên, Thuật và Nguyệt đã chuyển hơn 3.875 tỷ đồng ra nước ngoài và hưởng lợi 152 triệu đồng.
Ngoài ra, Nguyệt còn bàn với chồng lập 8 công ty nhằm sử dụng pháp nhân của các công ty này lập hồ sơ tạm nhập tái xuất khống để chuyển tiền ra nước ngoài.
Nguyệt và các đồng phạm đã sử dụng các pháp nhân được thành lập ký hợp đồng kinh tế khống mua hàng hóa là IC điện thoại thông minh của các công ty tại Singapore, rồi xuất bán cho các công ty tại Trung Quốc theo hình thức tạm nhập tái xuất để có tờ khai hải quan.
Từ đó, các bị cáo lập hồ sơ chuyển tiền trái phép ra nước ngoài, hưởng lợi 0,1% tổng số tiền trên mỗi giao dịch chuyển tiền. Theo cáo trạng, Tuấn đồng phạm với Nguyệt vận chuyển hơn 6.788 tỷ đồng và hưởng lợi hơn 6,7 tỷ đồng. Để có hàng hóa hợp thức các hợp đồng kinh tế mua hàng hóa tạm nhập, tái xuất, Nguyệt chỉ đạo em ruột là Nguyễn Văn Thắng mua các linh kiện điện tử (IC) từ Trung Quốc. Thắng bị xác định là đồng phạm với Nguyệt vận chuyển hơn 30.498 tỷ đồng ra nước ngoài, hưởng lợi 410 triệu đồng.
Kết luận điều tra xác định, tổng số tiền Nguyệt chuyển trái phép ra nước ngoài là hơn 30. 498 tỷ đồng, thu lời bất chính hơn 30,4 tỷ đồng. Tại cơ quan điều tra, Nguyệt khai số tiền hưởng lợi được chi trả cho hoạt động công ty, mua hàng, vận chuyển hàng hóa và chi tiêu cá nhân hết.
Bóc tách vụ án, chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng
Liên quan đến vụ án, cáo trạng nêu, Phạm Thị Minh Ngân, nhân viên ngân hàng nhận thực hiện thanh toán quốc tế cho 6 công ty do Nguyệt thành lập.
Vì Ngân là nhân viên ngân hàng, nên Công an Hà Nội đã tách hồ sơ liên quan đến hành vi của Ngân đến Cục điều tra hình sự - Bộ Quốc Phòng giải quyết theo thẩm quyền. Đến nay, nhân viên ngân hàng này đã bị khởi tố và áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Cơ quan điều tra xác định, các đối tượng liên quan chuyển tiền cho Nguyễn Thị Nguyệt là một số chủ doanh nghiệp, trong đó có chủ nhiều tiệm vàng ở Hà Nội, chủ doanh nghiệp ở TP.HCM. Với nhóm đối tượng này, Cơ quan điều tra cũng tách tài liệu để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
Các bị can trong đường dây chuyển tiền bị truy tố gồm: Nguyễn Thị Nguyệt (SN 1985); Phạm Anh Tuấn (SN 1984); Nguyễn Văn Thắng (SN 1985); Nguyễn Thị Nga (SN 1988); Nguyễn Thị Hà (SN 1979); Nguyễn Văn Thực (SN 1979), Nguyễn Thị Thúy (SN 1974); Nguyễn Minh Khang (SN 1995); Phạm Việt Hùng (SN 1991), đều trú ở quận Tây Hồ, TP Hà Nội; Phạm Hữu Thuật (SN 1981, ở Quảng Ninh), Nguyễn Văn Việt (SN 1998), Nguyễn Xuân Tươi (SN 1969, đều ở Hải Dương) và Phạm Hồng Hạo (SN 1967) trú ở Hà Nam.
Bình luận