• Zalo

Người khởi nguồn cho những thành công

Khoa học - Công nghệThứ Sáu, 04/02/2011 06:44:00 +07:00Google News

(VTC News) - Gần như cả cuộc đời hoạt động của mình, GS. TSKH Đỗ Trung Tá đều gắn với ngành bưu chính, viễn thông- công nghệ thông tin...

(VTC News) - Gần như cả cuộc đời hoạt động của mình, GS. TSKH Đỗ Trung Tá đều gắn với ngành bưu chính, viễn thông- công nghệ thông tin. Dù trên bất cứ cương vị công tác nào, dù là Chủ tịch Hội đồng quản trị VNPT, Bộ trưởng Bộ Bưu chính, viễn thông (nay là Bộ Thông tin-truyền thông), hay Chủ tịch Hội đồng nghiên cứu chính sách khoa học &CNTT thì ông cũng đều có những đóng góp công sức không nhỏ.

 

Từ khảo khổ đến bưu chính-viễn thông

Khi còn đi học không bao giờ ông nghĩ mình sẽ làm trong ngành bưu điện. Năm 1965, trong khi vừa làm vừa học để chuẩn bị thi đại học thì Nhà nước bỏ thi đại học, ông Tá nộp đơn vào Đại học Bách khoa và Đại học Tổng hợp. Có lẽ do luôn học giỏi môn Sử ở trường phổ thông nên ông Tá được nhận vào khoa Sử Đại học Tổng hợp và theo học môn Khảo cổ học.


GS. TSKH Đỗ Trung Tá
Thế nhưng mới học được vài ngày thì Đại học Thông tin liên lạc lúc đó mới được thành lập lại sau mùa tuyển sinh, không có sinh viên nên xin mỗi trường vài sinh viên về học trong đó tình cờ lại có Đỗ Trung Tá.


Khi nghe tin loáng thoáng là Tá sẽ học bưu điện, mẹ Tá nhất quyết không cho đi học. Nguyên nhân là ông bưu tá ở xã là người xấu nhất làng lại rất hay đánh vợ, nhiệm vụ là đi đưa thư thì không đưa mà giấu thư của người ta hàng tháng trời mới đưa đến nỗi suýt bị đi tù. Trong con mắt của bà mẹ Đỗ Trung Tá, “bưu điện” là cái bọn không ra gì, không nên học.


Nhưng rồi ông Tá cũng tìm cách nói dối mẹ để nhập học và chính thức trở thành sinh viên phổ thông đầu tiên của Trường Đại học Thông tin liên lạc, các sinh viên cùng thời với Tá lúc đó đều là cán bộ đi học.


Năm 1970, khi mới tốt nghiệp đại học, ông Tá được cử đi thi nghiên cứu sinh ngay. Hiệu trưởng Đại học thông tin liên lạc thời đó phê trong hồ sơ: "Đây là đối tượng cần được bồi dưỡng sớm”. Hơn 3 tháng trời lên Hà Nội ôn thi thì có tới gần 1 tháng ông Tá phải nằm liệt giường trên gác xép ở nhà của một cô cháu gái cạnh nhà xác ngõ Vạn Kiếp của bệnh viện Cuba  vì bị kiết lị.


Hơn 2 tháng còn lại, trong giờ thì ông Tá học ở thư viện, trưa và tối thì học ở công viên hoặc ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội hiện nay). Sáng nhịn đói, trưa chỉ ăn một đĩa lạc và một cốc chè tươi; 10 giờ tối, ông Tá mới về nhà ngủ bởi ở gác xép trên có mái tôn rất nóng.


Thế nhưng đến khi đi thi nghiên cứu sinh, ông Tá vẫn đỗ cao nhất miền Bắc dù môn Toán chép nhầm đề nên chỉ được 8,5 điểm. Cho đến tận bây giờ, chè tươi vẫn là món yêu thích của ông Tá vì ông tin rằng đây là loại chè có lợi cho trí óc.


Trước khi làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, từ thời còn làm phó tiến sĩ tại Đại học Kỹ thuật Ilmenau, CHDC Đức (cũ), ông Tá đã nổi tiếng là sinh viên số 1 của trường. “Lý thuyết về tai biến trong các hệ thống động” là đề tài cho luận văn tiến sĩ khoa học của ông từ năm 1981-1985. Đây cũng là điểm khiếm khuyết trong cuốn sách giáo khoa đã được tái bản tới 9 lần của vị giáo sư hướng dẫn ông Tá.


Ông Tá nhận định, trong bất kỳ một hệ thống nào đều có các giá trị ổn định và các giá trị không ổn định và có một vùng ranh giới. Chỉ cần lựa chọn một tham số không đúng thì hệ thống sẽ từ vùng ổn định sẽ chuyển sang vùng không ổn định (vùng nhiễu). Ông Tá tin rằng mình có thể chứng minh được và vẽ được đường ranh giới bằng đồ thị. Thế nhưng, khi làm thí nghiệm thì kết quả có lúc đúng với nhận định của ông Tá, có lúc lại đúng với sách của ông thầy.


Trong một hội nghị khoa học tại Bungari, ông Tá dù không được tham dự vẫn quyết định gửi đề tài nghiên cứu của mình công bố tại hội nghị về một mô hình lý tưởng (về toán học) nhưng không có ứng dụng lý tưởng (về kỹ thuật). Tại hội nghị đó, Giáo sư Kavami – một giáo sư toán học hàng đầu tại Nhật Bản của Đại học Tổng hợp Tokyo - đã chỉ trích công trình của ông Tá dữ dội.


Thế nhưng, sau khi về nước và nghiên cứu lại, Giáo sư Kavami có một cách nhìn nhận khác. Cũng chính vì lý do này mà Giáo sư Kavami đã sang tận Đại học Kỹ thuật Ilmenau quỳ xuống để xin lỗi ông Tá (theo kiểu Nhật) về sự thiếu hiểu biết do chưa học về kỹ thuật mà chỉ biết về toán học.


Vào thời kỳ đó, ông Tá là thần tượng của các lưu học sinh tại Đức. Mỗi khi cãi nhau không được với các sinh viên Đức, các lưu học sinh bí quá cứ lấy “thằng Tá” ra so sánh. Hội chứng “thằng Tá” lan ra khắp nơi cả tới những nơi ăn uống, bán hàng. Ông Tá được mọi người gọi là Tiến sĩ Tá dù chưa bảo vệ luận án.


Từ “cơn lốc internet”…


Ngày nay ai cũng biết internet có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với đời sống hiện đại, bởi chỉ cần một cái nhấp chuột của máy tính nối mạng thì bất cứ ai cũng có thể tiếp cận với những thông tin mới nhất về mọi khía cạnh của đời sống xã hội văn minh.


Người có công không nhỏ trong thành tựu này không ai khác chính là GS. TSKH Đỗ Trung Tá. Có thể nói chiến dịch “cơn lốc internet” do ông Tá khởi xướng được bắt đầu từ cuối năm 1996 đầu 1997 thực sự được coi là cuộc cách mạng kỳ diệu trong lịch sử phát triển của ngành công nghệ-thông tin-truyền thông nước nhà.


GS.TSKH Đỗ Trung Tá xem thử TV 3D bằng loại kính riêng biệt tại gian hàng của VTC.
GS. TSKH Đỗ Trung Tá từng làm việc trong VNPT nhiều năm trước khi giữ chức bộ trưởng Bộ BCVT. Ông Đỗ Trung Tá được nhắc đến với vai trò là người "chèo lái" con thuyền VNPT ở thời điểm bắt đầu mở cửa thị trường viễn thông và Internet, đưa viễn thông Việt Nam và VNPT là chủ đạo phát triển mạnh mẽ, là một trong những quốc gia dẫn đầu về tốc độ phát triển bưu chính, viễn thông. 

Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ, cuối năm 1996, đất nước chúng ta có nhiều quan điểm khác nhau trong việc nhìn nhận những mặt tích cực và tiêu cực của Internet. Ông Đỗ Trung Tá nhớ lại: “Đã có hai trường phái quan điểm: phát triển Internet hoặc là chưa phát triển Internet vội ở VN. Tuy nhiên trong Hội nghị Trung ương 2 khoá 8 vào tháng 11/1996, trên cơ sở đề nghị của Ban cán sự Đảng của Tổng cục Bưu điện lúc đó và nay là Bộ BCVT, Trung ương đã nhất trí cho mở Internet. Khung cảnh ra đời Internet như vậy nên đòi hỏi việc quản lý như thế nào để cho xã hội có thể tin tưởng được, vì vậy lúc đó chúng tôi đặt ra "quản lý đến đâu, phát triển tới đó. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển từ năm 1997 đến 2001, chúng tôi thấy có những dấu hiệu rất tốt, những mặt tích cực nhiều hơn tiêu cực, những lo lắng cũng bớt dần. Vì vậy nếu như giai đoạn đầu quản lý chặt như vậy để dịch vụ phát triển đi đúng đường ray, đúng định hướng, thì tới giai đoạn này, nếu muốn phát triển nhanh hơn, đáp ứng được yêu cầu của xã hội, cách quản lý đó không còn phù hợp nữa. Và đến năm 2001 chúng ta đã quyết định đảo ngược phương hướng quản lý, phát triển đến đâu quản lý tới đó.


Điều này thể hiện khung pháp lý để quản lý Internet, những thông tư hướng dẫn vấn đề đảm bảo an ninh, an toàn đều phải có cố gắng cải tiến và đi sát với sự phát triển. Chúng ta mở ra môi trường cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp.


Năm 2004 khi Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố đột phá phát triển Internet thì chính năm 2001 chúng ta đã có giai đoạn chuẩn bị khá kỹ càng. Khi đặt ra chỉ tiêu tới 2010, 40% dân số Việt Nam sẽ sử dụng Internet, tôi cũng nghĩ rằng đây là cả một sự dũng cảm nhưng Bộ BCVT cũng đã nhìn thấy những điều kiện có thể thực hiện được.

Chúng tôi phát động một “cơn lốc” Internet của Việt Nam ý muốn nói ít ra phải vượt chỉ tiêu 40% ấy”. Khi chúng ta đưa ra tiêu chí quản lý mới này thì thấy sự phát triển rất nhanh và người dân cũng rất tin tưởng sử dụng Internet. Internet đã vào trường học, vào bệnh viện, đã dần về làng, các điểm Bưu điện Văn hoá xã. Khi chúng ta thay đổi lại cung cách quản lý Internet đã đến được với nhiều người sử dụng ở các môi trường khác nhau.... Bây giờ ngay khi đi họp các cụ về hưu, có cụ phàn nàn không nhận được báo giấy, vậy mà có cụ lại bảo sao cái này ông không đọc trên mạng”.


… Đến bưu điện văn hoá xã


Khi là lãnh đạo VNPT hay sau này là Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông, ông mong muốn làm sao quan tâm hơn nữa đến khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, chiếm khoảng 70% dân số Việt Nam bởi theo ông sự khi thành phố đang dần ở mức bão hòa về nhu cầu dịch vụ viễn thông, CNTT, mỗi người cần hiểu rằng càng tới mức bão hòa bao nhiêu thì khoảng cách nông thôn - thành thị càng xa bấy nhiêu. Vì vậy, một mục tiêu khi còn là Bộ trưởng Bưu chính Viễn thông ông Tá luôn đặt ra là phải quyết đẩy nhanh hơn để thu hẹp khoảng cách số. Khoảng cách số không chỉ nói về kỹ thuật mà là thông tin, sự gần gũi của chính quyền với người dân. Khi chính phủ điện tử ra đời, Chính phủ phục vụ các dịch vụ công tốt cho người dân, người dân gần gũi với chính phủ hơn.


Năm 1995, khi ông Tá lên giữ chức Chủ tịch  Hội đồng quản trị VNPT, khi về thăm quê, ông Tá có tặng ông Chủ tịch xã đã về hưu một gói mực khô (quà ông Tá mới đi Quảng Ninh về). Ông Chủ tịch xã bỏ mực ra, vuốt cẩn thận lại tờ báo bọc mực để cất đi, hỏi ra mới biết ở làng không có báo đọc nên ông mới quý tờ báo như vậy. Mỗi lần về quê thăm nhà, ông Tá đều biếu sách báo cũ cho bà bán quán nước gần nhà.


Hàng tháng sau, ông Tá về vẫn thấy sách báo còn đó, bà chủ quán bảo để đó để cho mọi người đọc bởi ở đây đâu có sách báo gì. Ông Tá nghĩ: "Tại Hà Tây mà người dân còn lạc hậu về thông tin như vậy thì trên các vùng sâu vùng xa khác, bà con nông dân còn bị thiệt thòi đến mức nào?”.


Sau đó, ông Tá cùng bàn với Ban cán sự VNPT thành lập các điểm Bưu điện Văn hóa xã trên toàn quốc tại các xã đặc biệt khó khăn giúp cho người dân có thể được đọc sách, báo, tạp chí, tra cứu các văn bản miễn phí. Bưu điện văn hóa xã cũng là nơi tập trung các sinh hoạt văn hóa của dân cư tại xã, đồng thời cung cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông phục vụ người dân.


Và “cuộc cách mạng” số


Trong “cuộc cách mạng số” ông Tá cũng là người có những đóng góp không nhỏ. Khi mà các doanh nghiệp Việt Nam đang coi viễn thông là  mảnh đất màu mở thìoong đã nói đến công nghiệp nội dung và ông đặc biệt nhấn mạnh đến sự tích hợp đa dịch vụ.


Có thể nói sự nghiệp của Tổng công ty truyền thông đa phương tiện (VTC) được như ngày hôm nay cũng một phần có sự ủng hộ, ưu ái và chỉ đạo tận tình của ông Đỗ Trung Tá trên cương vị là người đứng đầu ngành bưu chính-viễn thông. Ông là người trực tiếp đứng ra tiếp nhận VTC từ Bộ Văn hóa- thông tin về Bộ mình và có những chỉ đạo cụ thể để VTC từng bước lớn mạnh.

Ngay từ ngày đầu tiên tiếp nhận VTC ông đã nói: “VTC cùng với các doanh nghiệp khác phải nghiên cứu để làm sao cung cấp các sản phẩm tạo thuận lợi nhất cho người dùng. Một giải pháp rất hữu ích cho mục tiêu này là tích hợp đa dịch vụ. Ngày nay, thị trường tiêu dùng đã cho ra đời nhiều loại hàng hoá, dịch vụ như vậy. Sự tích hợp “nhiều-trong-một” tạo cho người dùng vừa thuận lợi vừa tiết kiệm thời gian, và xu thế này ngày càng được khai thác và phát triển. Do đó vấn đề tích hợp “nhiều trong một” trong lĩnh vực CNTT càng có ý nghĩa, càng mang lại nhiều thuận tiện, lợi ích cho người tiêu dùng”.


Chính vì vậy mà ngay từ khi cái cảnh mỗi nhà một chiếc ăng ten trên nóc đã trở nên quen thuộc, khi mà giới truyền thông nước nhà ghi nhận sức mạnh và độ phổ biến của truyền hình analog và thậm chí ngay cả khi truyền hình cáp đang được ưa chuộng ông Tá đã nói: “Công nghệ analog sắp hoàn thành nhiệm vụ. Khoa học công nghệ phát triển không cho phép con người tiếp tục phải đặt niềm tin vào một hình thức truyền hình cho chất lượng hình ảnh âm thanh trung bình, lãng phí tài nguyên tần số, phụ thuộc nhiều vào thời tiết như analog nữa. Đó là còn chưa tính đến việc lưu trữ, bảo quản băng hình của hệ thống truyền hình analog không khác gì một thư viện sách báo truyền thống, tốn diện tích, tìm kiếm lâu, thiếu an toàn. Còn truyền hình cáp, với chất lượng tốt hơn, kênh phát sóng cũng nhiều không kém truyền hình kỹ thuật số, nhưng cũng không nên đánh giá cao. Đơn giản bởi nó quá tốn kém và thiếu linh động trong việc mở rộng diện phủ cáp. Mỹ phải mất hơn 10 năm mới phủ tương đối cơ bản toàn liên bang. Chi phí bỏ ra vô cùng lớn. Người ta ví von không khác gì đem hàng tỷ đô la chôn xuống đất. Mà thời gian thu hồi vốn rất lâu”.


Và từ đấy một cuộc cách mạng số hóa trong truyền hình được bắt đầu.


Đầu năm 2001, được sự ủng hộ và cổ vũ của GS. TSKH Đỗ Trung Tá, khi ấy là Bộ trưởn Bộ BCVT, Tổng công ty VTC, đứng đầu là TS. Thái Minh Tần, Chủ tịch HĐQT, TGĐ Tổng công ty đã bắt tay vào triển khai thành công công nghệ phát hình kỹ thuật số mặt đất theo chuẩn DVB–T. Đây là sự kiện làm rung chuyển giới truyền thông lúc bấy giờ. Truyền hình số mặt đất như một làn gió mới thổi vào giới truyền thông nước nhà và lan tỏa ra khắp mọi miền của đất nước.


Về sự kiện này báo điện tử VietNamNet (ngày 28/04/2005) viết: “Điều khiến người dân yêu truyền hình tại TP.HCM xôn xao hơn tuần lễ nay không phải là chuyện truyền hình cáp (MMDS) mở đợt siêu khuyến mãi lắp đặt trọn gói và cho mượn bộ giải mã dài hạn. Họ xôn xao cũng không phải do truyền hình số vệ tinh (DTH) mở đợt khuyến mãi cho khách hàng với giá cực rẻ. Điều mà mọi người đặc biệt quan tâm là chuyện VTC được Chính phủ cho phép ứng dụng công nghệ truyền hình số mặt đất trên phạm vi toàn quốc. Thiết bị giải mã model T12 của VTC cho phép người xem thưởng thức tới… 42 kênh truyền hình trong và ngoài nước. Điều này đã làm cho “bàn tiệc kỹ thuật số” thêm bội phần hấp dẫn”. 


Sau này, như nhiều người đã biết, tiếp theo việc phát sóng truyền hình số mặt đất, nhiều công nghệ mới trong lĩnh vực truyền hình đã được VTC ứng dụng thành công. Việc phát sóng truyền hình di động theo chuẩn DVB-H vào năm 2006 cũng là dấu mốc quan trọng đưa Việt Nam vào danh sách một trong số ít nước đầu tiên trên thế giới thương mại hóa dịch vụ này.


Ngày 20/12/2008, VTC bắt đầu chính thức phát tín hiệu sóng truyền hình lên vệ tinh VINASAT-1 từ trạm phát sóng đặt tại 65 Lạc Trung, Hà Nội, đồng thời cho ra đời bộ thu giải mã tín hiệu truyền hình vệ tinh HD. Với bộ thu giải mã tín hiệu hiện đại này, hàng triệu khán giả của VTC có cơ hội trải nghiệm những giá trị mới từ công nghệ tiên tiến, thưởng thức các chương trình truyền hình có độ nét rất cao và âm thanh trung thực theo tiêu chuẩn HDTV.


Khởi nguồn cho những thành công này, không ai khác, chính là GS. TSKH Đỗ Trung Tá.


Triệu Bình Thanh

Bình luận
vtcnews.vn