Phóng sự

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn

Thứ Tư, 09/04/2025 06:30:00 +07:00

(VTC News) - "Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, lời cảnh cáo của Tham mưu trưởng quân lực Mỹ - C.Weyand thành sự thật khi 9 ngày sau (30/4/1975), chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Đầu tháng 3/1975, quân đội ta đã tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ lực lượng quân chính quyền Việt Nam Cộng hoà ở vùng 1 và vùng 2 chiến thuật, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và hầu hết các tỉnh miền Trung.

Trước tình thế nguy khốn đó, Tổng thống Mỹ G.Ford đã cử phái đoàn quân sự do Tham mưu trưởng quân lực Mỹ - Đại tướng Frederick C.Weyand cầm đầu, đến Nam Việt Nam để đánh giá tổn thất và lập kế hoạch đối phó, cố giữ được phần đất còn lại.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 1

Sau khi thị sát, C.Weyand nói với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Sự sụp đổ của quân đội VNCH đã gây cho người Mỹ một ấn tượng kinh ngạc về sự thất bại và hèn nhát”, rằng “Tổng thống G.Ford chỉ có thể xin thêm viện trợ cho Nam Việt Nam nếu Sài Gòn mau chóng tỏ ra rằng quân đội của họ sẽ giữ vững trận địa và chiến đấu”.

C.Weyand chỉ thị cho Nguyễn Văn Thiệu và tướng lĩnh VNCH phải hình thành ngay tuyến phòng thủ Phan Rang - Xuân Lộc - Tây Ninh. Đặc biệt “phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”. C.Weyand còn cảnh cáo “chỉ thêm một cuộc rút chạy nữa thôi là ‘xin đủ'”.

Theo Trung tướng Nguyễn Văn Thái - Nguyên Phó chính ủy Sư đoàn 7 - Quân đoàn 4, Thị xã Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh nằm trên các trục giao thông quan trọng như quốc lộ 1, đường 20 từ Đà Lạt về, đường 15 đi Vũng Tàu, đường số 2 đi Bà Rịa... Là tỉnh địa đầu của miền Đông Nam Bộ, cửa ngõ phía Đông, cách Sài Gòn 60km. Đây được xem là khu vực trọng yếu nhất của tuyến phòng thủ mới của Mỹ – VNCH.

Do đó, Nguyễn Văn Thiệu đã lệnh cho Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng quân VNCH, phải tổ chức giữ cho được Xuân Lộc bằng bất cứ giá nào.

Họ cho rằng giữ được Xuân Lộc mới ngăn chặn quân ta tiến công vào Biên Hòa – Sài Gòn bằng đường 1, bảo đảm cho sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất hoạt động, bảo đảm Bà Rịa - Vũng Tàu chưa trực tiếp bị uy hiếp, có cơ hội nhận hàng viện trợ vào Sài Gòn bằng đường biển và đó cũng là con đường rút chạy sau cùng.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 2

Đập tan tuyến phòng ngự thép Xuân Lộc, mở đường tiến vào Sài Gòn. (Ảnh tư liệu)

Ở Xuân Lộc, ngoài lực lượng Tiểu khu và Sư đoàn 18 bộ binh, địch tập trung một lực lượng lớn, được coi là mạnh nhất của vùng 3 chiến thuật (Quân đoàn 3 VNCH) và lực lượng tổng trù bị của Việt Nam Cộng hòa, gồm: 1 Liên đoàn biệt động quân, 9 Tiểu đoàn bảo an, 2 Tiểu đoàn pháo binh (42 khẩu), 3 Đại đội biệt lập, 4 Trung đội pháo, 1 Lữ đoàn dù, 2 Lữ đoàn thủy quân lục chiến, các lực lượng cảnh sát, dân vệ, nghĩa quân tại chỗ,… tổng không dưới 12.000 quân.

Chưa kể đến 8 Tiểu đoàn pháo binh, 2 Chi đội xe tăng, 1 Trung đoàn thiết giáp,… đưa số xe tăng thiết giáp lên 300 chiếc.

Như vậy, trước ngày ta nổ súng, địch đã tập trung ở đây 50% lực lượng bộ binh, 60% pháo binh, hầu hết xe tăng ở vùng 3 chiến thuật và lực lượng tổng dự bị tương đương một sư đoàn. Không quân từ các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất cũng được huy động với mức cao nhất, trực tiếp chi viện cho các mũi phản kích của bộ binh xe tăng và đánh vào đội hình tấn công của ta.

Đây được xem là cụm chốt cứng nhất, mạnh nhất, cánh cửa thép để thử nghiệm khả năng chiến đấu của quân VNCH…

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 3

Phương án phòng thủ Xuân Lộc này do đích thân C.Weyand lập ra, giao tướng Lê Minh Đảo - Tư lệnh Sư đoàn 18 chỉ huy.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 4

Nhận định được tầm quan trọng của cửa ngõ Xuân Lộc, ngày 2/4/1975, theo chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (Bộ Tư lệnh Miền) quyết địch mở cuộc tiến công giải phóng Xuân Lộc.

Ngày 3/4/1975 tại Sở chỉ huy cầu La Ngà, Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 bàn phương án đánh chiếm Xuân Lộc.

Nhận định về lực lượng và hệ thống phòng của địch, Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân đoàn cho rằng đây là khu vực phòng thủ mạnh của địch ở cửa ngõ Sài Gòn, khác hẳn các mục tiêu mà Quân đoàn đã đánh trước đó như thị xã Phước Long, Lâm Đồng. Lực lượng của ta tham chiến ít hơn địch, đặc biệt là các binh chủng.

Do đó Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân đoàn đề ra phương châm chỉ đạo tác chiến “Đánh chắc, tiến chắc", nhưng trước tình hình địch đang hoang mang dao động cần phải “khẩn trương, táo bạo”.

Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, toàn bộ lực lượng pháo binh, pháo cao xạ, xe tăng, công binh và các đơn vị bảo đảm. Ta sẽ tiến công thẳng vào sở chỉ huy tiểu khu và Sư đoàn 18 địch. Nếu địch tan vỡ thì nhanh chóng chiếm Xuân Lộc.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 5

Bộ binh cùng xe tăng ta tiến công giải phóng thị xã Xuân Lộc. (Ảnh tư liệu)

“Trong toàn cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Xuân Lộc là một chuỗi các trận đánh ác liệt, cũng là một trong những thử thách oanh liệt nhất của Quân đoàn 4”, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh - Nguyên Chính ủy Trung đoàn 141 - Sư đoàn 7– Quân đoàn 4 nói.

Sáng 8/4/1975, Tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, Đại tướng Cao Văn Viên kêu gọi “các chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa hãy sáng suốt, bình tĩnh, giữ vững tay súng trên các chiến tuyến để chặn đứng Cộng sản” thì không đầy 24 giờ sau đó - rạng sáng 9/4, bão lửa đã dội lên chi khu Xuân Lộc.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 6

Sư đoàn 7 từ hướng Đông, Sư đoàn 341 từ hướng Bắc, di chuyển về tiểu khu Long Khánh, Dinh tỉnh trưởng Long Khánh, căn cứ chiến đoàn 43 địch. Các trung đoàn nhận lệnh vào vị trí chiến đấu, đào hầm trú ẩn, chờ đúng giờ nổ súng.

5h30 ngày 9/4/1975, ta nổ phát súng đầu tiên. Cứ thế, pháo dồn dập đội vào căn cứ địch gần một tiếng đồng hồ. Lúc đầu địch gần như tê liệt không phản ứng, nhưng khi tất cả hỏa lực mạnh của ta đặt gần sát với địch vừa đồng loạt nổ súng thì hỏa lực của họ ở dưới hầm ngầm bất ngờ dội lên bắn trả quyết liệt...

“Mưa pháo” dội xuống rào rào, mù mịt cả trận địa, 4 xe tăng của ta bị địch bắn rát. Trong màn mở đầu này, chiến sỹ của ta thương vong nhiều.

Ngay ngày đầu tiên, báo chí Mỹ đưa tin về cuộc nói chuyện của các sỹ quan Lầu Năm góc, với nhận định: “Cuộc tiến công này có thể là một trong những trận đánh quyết định của năm 1975”, “Trận Xuân Lộc cũng có thể là cuộc thử sức đầu tiên xem quân VNCH có đứng vững không?”,…

Quân ta vẫn tiếp tục bám trụ trận địa. Trong 2 ngày tiếp theo (10 - 11/4/1975), ta nhiều lần tấn công vào căn cứ của địch nhưng đều bị chặn.

Qua 3 ngày chiến đấu, địch ngoan cố chống cự quyết liệt. Ta dù chiếm được một số mục tiêu, diệt được một bộ phận sinh lực địch, giữ một số bàn đạp quan trọng, nhưng Quân đoàn 4 bị thương vong hàng nghìn chiến sỹ.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 7

Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng thị xã Xuân Lộc. (Ảnh tư liệu)

Trước tình thế địch chống cự quyết liệt, ta không thể đánh chiếm các căn cứ. Ngày 12/4/1975, Sở chỉ huy Quân đoàn 4 lệnh tạm ngưng tấn công. Các đơn vị giữ bàn đạp đã đánh chiếm được, duy trì áp lực thường xuyên nghi binh địch trong thị xã.

Họp bàn, Sở chỉ huy đưa ra các đánh giá khiến việc đánh chiếm chưa thuận lợi.

Sự thay đổi bất ngờ làm cho quan chức Mỹ - VNCH hý hửng, tưởng đã đẩy lùi cuộc tấn công của ta. Họ vội vàng huênh hoang tuyên bố, lên dây cót tinh thần quân lính, tỏ ra là lực lượng trội hơn và vẫn là một lực lượng chiến đấu đáng tin cậy “sẽ đánh bại Cộng sản”.

Lúc này tướng Lê Minh Đảo còn hung hăng nói “Việt cộng dù có thêm mấy sư đoàn cũng không chiếm được Xuân Lộc”, “Muốn chiếm Xuân Lộc phải bước qua xác của Đảo”, và “Sẽ đánh một trận oai hùng cho thế giới biết đến và để Mỹ cho thêm viện trợ”...

Họ còn đưa một số nhà báo lên Xuân Lộc bằng máy bay để khoe khoang chiến thắng lớn mà họ giành được.

Tối 12/4, Đài truyền hình Sài Gòn chiếu chương trình khuếch trương trận Xuân Lộc, cảnh các nhà báo được đưa lên Xuân Lộc để khoe quân VNCH vẫn giữ được thị xã. Trong đoạn phim được quay lại, Đảo tuyên bố: "Tôi sẽ cùng quân lính giữ thị xã này bằng bất cứ giá nào”.

Dù vậy, địch không quên tăng cường lực lượng cho Xuân Lộc. Những lực lượng được coi là mạnh nhất như Lữ đoàn dù, hai chiến đoàn thủy quân lục chiến, một liên đoàn biệt động, các chiến đoàn đặc nhiệm, một trung đoàn thiết giáp, các sư đoàn không quân (mỗi ngày từ 80 - 120 chiếc xuất kích từ Biên Hòa, Tân Sơn Nhất và Cần Thơ chi viện cho Xuân Lộc).

Ngày 13/4/1975, Thượng tướng Trần Văn Trà, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, vượt sông Đồng Nai, đến Sở chỉ huy Quân đoàn 4 nghiên cứu diễn biến trận đánh, quyết định tổ chức lại lực lượng, thay đổi cách đánh.

Bộ tư lệnh chiến dịch và Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 nhận định địch đã dồn quân vào để cố cứu thị xã Xuân Lộc thì ta không cần tập trung lực lượng đánh vào đây nữa mà chuyển lực lượng đánh các đơn vị đến phản kích, đứng chân chưa vững ở vòng ngoài, đang thiếu công sự và thiếu kết nối chặt chẽ với nhau.

Nhận định tuyến phòng thủ Sài Gòn của địch ở Xuân Lộc chỉ có giá trị nối liền với Biên Hòa, ta chủ trương lập thế trận mới, cô lập và cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đường 1 chặn địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên phản kích và đánh chiếm ngã ba Tân Phong cắt đường số 2 đi Bà Rịa.

Ta sẽ dùng pháo tầm xa bắn phá và khống chế liên tục ngày đêm sân bay Biên Hòa, không cho máy bay chiến đấu của địch cất cánh.

Nhân lúc địch đang hoang mang, dao động về chiến lược, ta không nhất thiết phải tập trung lực lượng lớn đánh vào khu vực lực lượng mạnh của địch mà có thể dùng “thế” để giải phóng Xuân Lộc.

Theo lệnh của Phó Tư lệnh Trần Văn Trà, ta thay đổi cách đánh: Không đánh thẳng vào thị xã Xuân Lộc mà vẫn sẽ chiếm được Xuân Lộc.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 8

5h30 ngày 9/4/1975, ta nổ phát súng đầu tiên. Pháo dồn dập đội vào căn cứ địch gần một tiếng đồng hồ.

Trong 2 ngày tiếp theo (10 - 11/4/1975), ta nhiều lần tấn công vào căn cứ của địch nhưng đều bị chặn.

Ngày 13/4/1975, Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh Trần Văn Trà đến Sở chỉ huy Quân đoàn 4 nghiên cứu diễn biến, quyết định tổ chức lại lực lượng, thay đổi cách đánh.

Ngày 14/4/1975, quân ta tăng cường thêm Sư đoàn 6 (Quân khu 7), Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2) tiếp viện cho Quân đoàn 4.

Đến tối 15/4/1975, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B diệt một trung đoàn địch gồm 3.000 quân. Địch phải bỏ lại 8 đại bác 105 và 155mm.

Ngày 16/4, ta làm chủ đoạn đường số 1, ngã ba Dầu Giây từ Xuân Lộc tới Bầu Cá.

Ngày 18/4/1975, địch phải chuyển máy bay F5 từ Biên Hòa về Tân Sơn Nhất, A37 về Trà Nóc - Cần Thơ…

Chiều tối 20/4/1975, lực lượng còn lại của địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 lệnh cho tất cả các đơn vị truy kích, bắt tỉnh trưởng Long Khánh Phạm Xuân Phúc.

Ngày 14/4/1975, trên tăng cường thêm Sư đoàn 6 (Quân khu 7), Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2) vào tiếp viện cùng Quân đoàn 4.

Quân ta dùng xe tăng dẫn đầu chọc thủng khu vực phòng thủ Bắc Xuân Lộc, chiến sự diễn ra ác liệt cả trong và ngoài thị xã. Toàn bộ lữ đoàn dù của địch gồm 3.000 quân bị ghìm chân ở một đồn điền cao su gần Xuân Lộc.

Đến tối 15/4/1975, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B diệt gọn một trung đoàn địch gồm 3.000 quân, bắt sống hơn 100 tên. Địch bị ta đánh tan tác, phải bỏ lại 8 đại bác 105 và 155mm.

Ngày 16/4, ta làm chủ đoạn đường số 1, ngã ba Dầu Giây từ Xuân Lộc tới Bầu Cá và đoạn đường số 2 bị cắt đứt.

Nhận thấy tình thế nguy nan, Sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 3 VNCH ở Trảng Bom tổ chức phản kích, chi viện thêm Lữ đoàn 3 thiết giáp (200 xe tăng, xe bọc thép), chiến đoàn 8 (thuộc Sư đoàn 5 địch), hơn 100 khẩu pháo, 125 máy bay chiến đấu… vào Xuân Lộc.

Máy bay địch tiếp tế cho Xuân Lộc lần lượt bị hỏa lực của ta tấn công, thất bại. Còn sân bay Biên Hòa, nơi xuất phát chủ yếu chi viện cho Xuân Lộc không thể cất cánh vì quân ta đã dùng pháo binh phá đường băng quan trọng nhất trong sân bay.

Trong ngày 16/4/1975, lực lượng chi viện của địch phải quay đầu trở lại Trảng Bom vì bị ta chặn chặn đứng ở Dầu Giây và đường số 20. Tình cảnh của địch ở Xuân Lộc lúc này bi đát, tinh thần quân lính sa sút, hoang mang.

Trước nguy cơ bị tiêu diệt và xét thấy không còn giá trị phòng thủ Xuân Lộc, ngày 18/4/1975, Lê Minh Đảo đề nghị rút bỏ Xuân Lộc. Bộ tổng tham mưu VNCH đồng ý và chỉ thị cho Đảo phải giữ bí mật kế hoạch rút chạy kẻo bị tiêu diệt.

Cùng ngày 18/4/1975, địch phải chuyển máy bay F5 từ Biên Hòa về Tân Sơn Nhất, A37 về Trà Nóc - Cần Thơ…

Chiều tối 20/4/1975, lực lượng còn lại của địch ở Xuân Lộc tháo chạy dưới trời mưa tầm tã. Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 lệnh cho tất cả các đơn vị truy kích tiêu diệt địch, bắt sống đại tá tỉnh trưởng Long Khánh Phạm Xuân Phúc.

Sáng 21/4/1975, ta tấn công vào các căn cứ còn lại của địch tại Xuân Lộc. Thị xã Xuân Lộc và tỉnh Long Khánh hoàn toàn được giải phóng.

Đến 19h ngày 21/4/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Người lên thay là Trần Văn Hương.

Chiến thắng to lớn, giải phóng Xuân Lộc - cánh cửa thép của quân VNCH ở phía Đông Sài Gòn đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ còn lại của địch, tạo ra thế trận mới, tạo thuận lợi tập kết lực lượng cánh Đông – Đông Nam vào trận quyết chiến cuối cùng giải phóng Sài Gòn: Chiến dịch Hồ Chí Minh.

9 ngày sau đó, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, cả miền Nam hoàn toàn được giải phóng.

Đập tan 'tuyến phòng ngự thép' Xuân Lộc, mở toang cửa ngõ vào Sài Gòn - 16

Thy Huệ(Thiết kế: Xuân Đức)
Bình luận
vtcnews.vn