
Số phận của tranh - Số phận của lịch sử
Cũng giống như mọi làng quê ở Huế tôi đã đi qua, làng Sình mang vẻ trầm mặc, u buồn nằm trên điểm hợp lưu giữa con sông Bồ và sông Hương. Nghe nói, trước đây làng Sình không chỉ nổi danh với nghề tranh mà còn là một làng cổ nổi tiếng với chùa Sùng Hóa được ghi trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An vào thế kỷ XVI. Ở đây vào ngày 10 tháng giêng còn có lễ hội vật, có nghề làm hương, làm hạt bỏng để cúng.
Trên biển chỉ đường, làng Sình hiện nay còn được gọi là làng Lại Ân, thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, nằm cách thành phố Huế khoảng 9km về phía Đông. Hỏi nhà nghệ nhân Kỳ Hữu Phước ai cũng biết. Vừa vào đến cổng nhà ông đã thấy trong sân có một không gian trưng bày nho nhỏ. Trên ba chiếc chõng tre lớn bày nào khuôn in tranh, nào các loại tranh vẽ trên giấy dó bán cho khách thập phương, nào thì các bát màu vẽ đã khô nứt nẻ. Trong lúc chờ ông Phước ra tiếp khách, vợ ông giới thiệu cho tôi một số các loại tranh đang bày trên chõng. Có nhiều loại kích thước khác nhau, hình vẽ khác nhau chủ yếu là tranh lưu niệm cho khách du lịch. Tôi hỏi về tranh cúng, bà mang ra một sấp tranh vẽ trên giấy công nghiệp, bà nói tranh cúng thì dùng giấy này vì sau đó người ta sẽ đốt nó.
Tranh làng Sình có mấy loại thế này: Tranh nhân vật, chủ yếu là tranh tượng bà (tượng đế, tượng chùa, tượng ngang) dán trên bàn thờ quanh năm. Loại tranh con ảnh (vẽ hình đàn ông, đàn bà). Loại thứ ba là tranh ông Điệu, ông Đốc và Tờ bếp dùng để đốt sau khi cúng xong. Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông, áo bà, áo binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình… thường là tranh cỡ nhỏ. Tranh súc vật (gia súc, ngoài ra còn có voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho người chết. Người hiểu nhất về tất cả những nghi lễ thờ cúng cũng như tranh cúng có lẽ chỉ có ông Phước.

Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước năm nay đã 64 tuổi. Người làng gọi ông là nghệ nhân công Kỳ Hữu Phước hoặc ông Công. Chữ “Công” ở đây hàm ý nói ông chính là người có công phục dựng nghề tranh này. Trong dòng họ nhà ông Phước thì ông là đời thứ 9 làm nghề vẽ tranh cúng. Theo ông nhẩm tính thì tuổi của nghề làm tranh này có lẽ vào khoảng 500 năm. Đây là nghề cha truyền con nối, ngay từ khi còn nhỏ, ông Phước đã vẽ tranh cúng rồi.
Trong suốt chặng đường tồn tại của tranh làng Sình không ít những thăng trầm. Có những lúc tưởng chừng như tranh làng Sình đã hết đường sống. Ông Phước bồi hồi nhớ lại từ những năm 1972 đến năm 1995, nghề vẽ tranh của làng tê liệt hoàn toàn. Khi giải phóng, đất nước còn khốn khó, học sinh đi học không có giấy để viết, người ta cho việc vẽ tranh cúng là phí phạm. Lại có người nói vẽ tranh cúng là mê tín dị đoan nên cấm tiệt. Những tưởng tranh làng Sình từ ấy lui vào dĩ vãng nhưng hóa ra không phải. Ngay cả trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, khi cả làng đã chẻ khuôn mang đốt thì ông Phước đã âm thầm chôn tất cả khuôn quý dưới đất, ngày ngày ông lặng lẽ trốn trong hầm ngồi vẽ rồi cũng lén lút giấu tranh trong người mang đi từng nhà bán. “Bán thì được bao nhiêu đâu, nhưng tôi không nỡ để đến đời tôi nghề nghiệp của tổ tiên bị lụi tàn”, ông Phước trầm ngâm.
Đến năm 1996 khi đất nước mở cửa, ông Phước dường như tìm thấy lối thoát cho nghề vẽ tranh làng Sình. Trong suốt 4, 5 năm đầu ông háo hức, chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm mua giấy, tìm màu. Thời ấy làm gì cũng khó khăn. Con đường tìm ra thị trường của tranh làng Sình vô cùng vất vả. Năm 2000 - 2002, ông Phước đi gõ cửa từng nhà ở làng thuyết phục họ quay lại nghề. Không có khuôn, chính tay ông ngồi khắc lại những bản mộc đó mang cho họ mượn. Họ nói sợ bị đánh thuế, sợ bị người ta bắt xé tranh mang đốt, ông bảo họ “Nếu anh sợ, tôi sẽ bảo kê cho anh. Anh không dám đi bán, để tôi đi bán cho”. Nói rồi ông làm thật. Ông mang tranh đi khắp các chợ thành phố, chợ vùng ven. Khi đó, nắm bắt được thông tin là nhà nước khuyến khích khôi phục lại nghề truyền thống, ông càng tin tưởng lạc quan vào con đường mình đã đi.
Từ đó cho đến nay, ông “Công” Kỳ Hữu Phước khoe trong làng đã có khoảng 40 hộ gia đình làm nghề vẽ tranh. Ngay cả các con ông, bao gồm hai trai, ba gái cũng theo nghề. Hai anh con trai hiện vẫn ở làng. Ba cô con gái lấy chồng làng khác cũng mang nghề theo. Ông bảo, trong thành phố Đà Nẵng cũng có một số người vẽ tranh cúng. Họ chính là những người làng Sình di cư. Cô cháu ngoại ông từ khi ba tuổi đã cầm bút tô màu. Bà Gái, vợ ông, cũng am hiểu về tranh Sình chẳng kém gì chồng. Vậy là cả nhà ông, chẳng có ai là không theo nghề này cả.
Công phu một thứ nghề
Tranh làng Sình về hình thức gần giống với tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống. Cái khác vốn là mục đích sử dụng tranh mà thôi. Tranh làng Sình ra đời do nhu cầu tín ngưỡng, thờ hóa trong các lễ cầu an, giải hạn chứ không đơn thuần phục vụ cho các thú chơi tao nhã như tranh nơi khác. Ở ngoài Bắc, có lẽ ít người nghe đến tranh làng Sình nhưng phổ biến ở các tỉnh miền Trung từ Huế đến Quảng Trị, Quảng Nam- Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Đặc biệt ở Huế, có tài liệu ghi rằng, chúng còn xuất hiện trong cung cấm tại các lễ cúng tế cầu tự dân gian do các bà tổ chức một cách kín đáo bên cạnh các nghi lễ chính thống cung đình.
Ở Huế cứ vào ngày 23 - 5 âm lịch hàng năm là ngày người ta lại cúng cho các oan hồn chết trong cuộc chạy loạn bi thảm lớn nhất xảy ra ở Huế (năm 1885). Vào những dịp ấy, tranh cúng làng Sình lại được mua về đốt cùng với tiền vàng. Khi chú xe ôm chở tôi đi qua miếu thờ những nạn nhân của biến cố đau thương nhất này đã kể tôi nghe về lịch sử của nó và bảo tôi, hãy đến thăm làng Sình - Đó không chỉ là một làng nghề vẽ tranh đơn thuần. Đó còn là một phần tín ngưỡng quan trọng của người Huế. Và tôi đã đến đó.
Có lẽ, văn hóa tín ngưỡng, đức tin của người Huế đã phần nào giúp tranh làng Sình hồi sinh dẫu rằng, sau sự hồi sinh ấy, tranh làng Sình đã ít nhiều mang “màu sắc” khác. Khi tôi hỏi những bát màu trên chiếc chõng tre ngoài sân, ông Phước cho biết, để tiết kiệm chi phí và công sức giờ đây người ta dùng màu công nghiệp thay cho màu tự nhiên như trước đây. Màu công nghiệp mua vào rẻ, không phải gia công như với màu tự nhiên.

Trước đây, màu sắc của tranh đều làm từ cây cỏ. Muốn làm tranh, ông Phước phải lên rừng kiếm lá. Lá thì mỗi loại cho một màu khác nhau nên phải những người biết nghề mới biết phải lấy lá nào rồi tinh chế ra sao. Chỉ lên bức tranh ông Phước đọc “vị” cho tôi nghe: màu xanh làm từ hoa, lá dành dành. Màu vàng làm từ lá Đung, hoa Huề. Màu đỏ thì làm từ rễ cây Vang, vỏ cây dương liễu và lá bàng, hoặc gỗ cây trâm chẻ nhỏ, nấu với nước cho đến khi cô lại đặc sánh. Màu lục là hỗn hợp của hai loại nước được sắc từ lá bông ngọt và lá mối. Màu tím được chế từ hạt mồng tơi giã nhỏ, vắt thành nước pha với phèn chua để giữ màu. Màu chàm làm từ lá cây tràm ngâm vôi cho rữa nát, đánh cho tơi và nổi bọt, rồi vớt lấy bọt đó lọc kỹ, cho nước vào và cô đặc lại. Màu xám làm từ lá gai phơi khô, giã nhỏ và sắc lại. Trong số tất cả các màu, màu hồng thắm là màu làm kỳ công nhất phải bỏ rễ cây vào nồi đất đun mất tới 5 ngày 5 đêm mới cho ra đúng màu.
Riêng màu đen, cứ khi người ta đốt rơm rạ ngoài đồng, ông Phước lại mang bao tải lấy về cùng với lá bàng ngâm bỏ cối giã. Lá bàng có tác dụng làm màu đen bóng, láng như thế này. Ông Phước cũng cho biết, hiện nay trong làng chỉ còn mình ông là vẫn còn làm màu tự nhiên nhưng chỉ làm nếu ai đặt thôi.
Đặc biệt hơn nữa là các bút chổi dùng để tô vẽ của tranh làng Sình cũng là một trong những sản vật điạ phương. Bút tôi màu thường được làm từ rễ gốc rứa hoang, cắt vào một thời điểm nhất định trong năm, sau đó đem phơi và khoanh đầu lột vỏ để chừa phần ruột trong vừa đủ xơ, mềm để có thể ngấm mực phết màu như bút lông. Các loại bút rễ gốc rứa này cũng có rất nhiều các kích thước khác nhau.
Riêng giấy dó ông Phước vẫn phải mua về từ Hà Nội. Giờ Quảng Bình cũng có rồi. Giấy mua về chưa dùng được ngay mà phải quét hồ điệp hai lần đến khi giấy cứng và trắng bóng. Hồ điệp được gia đình ông lấy từ các vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Sau đó mang về nghiền thành bột, tinh lọc, pha với hồ và bồi lên giấy. Giấy dó sau khi có hồ điệp trở nên cứng, trắng và hơi lấp lánh. Nghe nói đâu, làng Sình ngày xưa còn được gọi là làng làm giấy bồi hồ điệp, không chỉ dùng cho nghề in tranh mà còn làm cả những công việc khác. Ông Phước khoe, sắp tới có lẽ giấy cũng không phải mua nữa vì trường Đại học mỹ thuật Huế cũng có người về đây làm giấy từ nguyên liệu tre và bã mía. Đến lúc ấy, tranh làng Sình chắc sẽ hoàn toàn sử dụng sản vật từ quê mình.
Nghề chính của người làng Sình vẫn là làm nông. Họ chỉ vẽ tranh vào lúc nông nhàn. Tranh cúng, mỗi cái được vài ngàn. Giờ làm tranh lưu niệm, bữa nao đông khách bán được 5, 7 bức, bữa nào vắng được 1, 2 bức là cùng. Mỗi bức tranh lưu niệm, ông bán được 50 ngàn đồng. Tranh cuốn lại bỏ vào ống nứa được cắt tiện khéo léo có thể mang đi xa làm kỷ niệm. Nhưng ở làng này, chẳng ai khấm khá nhờ vào nghề vẽ tranh cả. Có điều họ vẫn vẽ, vẫn lưu giữ nó như lưu giữ linh hồn của làng Sình. Bởi lẽ, nếu không còn vẽ tranh nữa, làng Sình sẽ chỉ đơn giản là làng Lại Ân, sẽ mãi như thế mà thôi…
Tuấn Minh


Bình luận