Trong 12 con vật của hệ can chi, Hổ tuy được xếp ở vị trí thứ ba nhưng lại đứng hàng đầu về uy lực và sức mạnh (trừ Rồng là con vật hư cấu, xin được bàn đến trong một dịp khác). Hổ đồng thời cũng là con vật có tính hoang dã nổi trội nhất. Nhưng, điều đặc biệt hơn cả mà người viết bài này nhận thấy, Hổ còn có tên gọi phong phú nhất so với tất cả các con giáp còn lại. Bên thềm năm mới Nhâm Dần, xin được hầu chuyện độc giả xoay quanh những cái tên của Hổ.
1. Cái tên phổ biến nhất và có thể xem như mẫu gốc - Hổ - lại có nguồn gốc từ tiếng Hán. Chữ Hổ (虎) được chiết tự là sự mô phỏng hình dáng của chính con hổ đang ngồi quỳ. Một nét sổ và một nét ngang bên trên là hai cái tai của nó, ở giữa là đầu và miệng đang há to. Phía dưới là hai cái chân (đùi) trước, bên trái một nét phẩy là cái thân và cái đuôi. Cũng có người chiết tự chữ Hổ gồm bộ hô và bộ nhi, trong đó chữ bộ hô là hình những đường vằn trên lưng con hổ, còn bộ nhi thì giống như người đang đi.
Chữ Hổ gắn liền với sức mạnh, sự quyết liệt, dữ dội, oai phong. Có lẽ vì thế mà nó cũng được chọn để đặt cho tên người. Nhiều danh sĩ của Việt Nam thời trung đại có tên Hổ dù không sinh năm Hổ. Đầu tiên, phải kể tới Lê Như Hổ sinh năm 1511 (tuổi Tân Mùi) tại làng Tân Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, thi đỗ Tiến sĩ đời vua Mạc Phúc Hải, làm quan đến chức Thượng thư, được phong hàm Thiếu bảo, tước Tuấn quận công. Hay như một nhân vật nổi tiếng khác là Phạm Đình Hổ, tuổi Mậu Tý (1768), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám dưới triều vua Minh Mệnh. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách giá trị như Vũ Trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục và nhiều tập thơ chữ Hán. Phạm Đình Hổ cũng được cho là người để lại nhiều giai thoại văn học trong đối đáp với bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Nhân vật gần với thời hiện đại hơn cả là Tăng Bạt Hổ, tuổi Mậu Ngọ (1858), là chí sĩ Việt Nam tham gia chống Pháp.
Hổ đi vào nhiều thành ngữ, tục ngữ quen thuộc trong đời sống người Việt như: Thả hổ về rừng; Cầm gươm đằng lưỡi, cưỡi hổ đằng đầu; Chim cùng thì mổ, hổ cùng thì vồ; Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau; Hổ chết để da, người ta chết để tiếng. Các câu tục ngữ, thành ngữ vừa kể dẫu ý nghĩa khác nhau, nhưng có thể dễ dàng nhìn thấy mẫu số chung, đó là sự công nhận con hổ như một sức mạnh nguy hiểm khiến người ta phải kiêng dè, e sợ, đề phòng. Trong nhiều trường hợp, sức mạnh, khả năng của hổ được so sánh, ví von với những thành tựu, kết quả của con người và được thừa nhận như một giá trị.
2. Có hai cái tên thuần Việt khác của con hổ là hùm và cọp. Trong đó, hùm còn có một tên gọi chệch khác là hầm (Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị - “Nhớ rừng”, Thế Lữ). Cái tên này có thể được xem là từ mô phỏng âm thanh (tiếng gầm) của con hổ. Chữ “hùm” cũng đi vào nhiều thành ngữ, tục ngữ của người Việt như: Cáo mượn oai hùm; Hùm dữ không ăn thịt con; Vuốt râu hùm; Sợ hùm sợ cả cứt hùm… Nửa đầu Thế kỷ 20, có nhà cách mạng khá nổi tiếng là Phan Văn Hùm, sinh năm 1902 (Nhâm Dần), mất năm 1946, là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ. Tốt nghiệp đại học và cao học ở Đại học Sorbonne (Paris), Phan Văn Hùm là tác giả của nhiều tác phẩm khảo cứu có giá trị như Phật giáo triết học, Tiền bạc (Khảo cứu về tiền tệ) và Biện chứng pháp phổ thông.
Nếu như chữ “hùm” (hầm) là mô phỏng tiếng con hổ thì chữ “cọp” lại được xem là mô phỏng những bước chân nặng, bí hiểm, chứa đựng nhiều đe dọa của loài mãnh thú. Bài thơ Tây Tiến của thi sĩ Quang Dũng có một câu đặt hai dấu nặng cạnh nhau, trong đó có một chữ “cọp”, được nhiều người cho là mô phỏng những bước chân đầy sự hăm dọa này: "Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người".
Có một tên gọi khác của con hổ, cũng thuần Việt nhưng ngày nay ít được dùng, đó là “kễnh” (còn có một biến âm là hếnh). Với khuôn vần “ênh”, kễnh cũng có thể xem là từ ít nhiều mang tính chất mô phỏng dáng hình to lớn của con hổ. Ta có thể đặt “kễnh” trong một trường các từ tương tự như: Kềnh, kềnh càng, kênh, công kênh, lênh khênh, khệnh… để thấy điều này. Trong đời sống ngôn ngữ của người Việt, từ “ông kễnh” ngoài việc chỉ con hổ còn được dùng để chỉ những kẻ có vẻ ngoài bộc lộ sự ngạo mạn, trịch thượng, muốn bắt người khác phải phục vụ mình. Chữ “kễnh” chỉ con hổ cũng đi vào một số câu ca dao: Mèo tha miếng thịt thì đòi/ Kễnh tha con lợn mắt coi trừng trừng.
Khái cũng là một tên gọi của loài động vật oai phong này, nhưng có phạm vi hoạt động hẹp hơn, thuộc về phương ngữ của một số vùng ở miền Trung. Thành ngữ, tục ngữ có các câu: Đi rừng gặp khái; Sợ khái không thà sợ cứt khái. Trong tiếng Việt còn có một từ “khái” với ý nghĩa “cứng cỏi, mạnh mẽ, không chịu khuất phục”, như khí khái, khái tính. Tôi cho rằng chữ “khái” (tính từ) này có những liên hệ phái sinh nhất định về mặt ý nghĩa với chữ “khái” (danh từ) chỉ con hổ.
3. Ở phía trên, tôi đã nói đến những tên gọi dành cho con hổ với cấu trúc từ đơn. Bên cạnh đó, còn phải nói đến các cụm từ diễn đạt khái niệm con hổ như Chúa sơn lâm và Ông ba mươi. Trong tên gọi Chúa sơn lâm, cả ba thành tố đều mang gốc Hán. Chữ “chúa” là một cách đọc khác của chữ “chủ” với ý nghĩa là người đứng đầu, người quyết định mọi việc cốt yếu trong tập thể. Hai chữ sơn lâm (núi rừng) chỉ phạm vi không gian hoạt động. Dùng cụm từ “Chúa sơn lâm” để chỉ con hổ, cộng đồng sử dụng ngôn ngữ một lần nữa khẳng định sức mạnh và uy quyền của con hổ trong mối tương quan với tất cả các loài động vật hoang dã sinh sống ở núi rừng.
Còn với tên gọi Ông ba mươi, có vài cách lý giải khác nhau. Trong bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do Nguyễn Đổng Chi biên soạn có câu chuyện mang tên Phạm Nhĩ hay là sự tích Ông ba mươi. Truyện kể về vị thần trên trời tên là Phạm Nhĩ, có sức khỏe vô song và nhiều tài phép thần thông. Vì giỏi hơn rất nhiều vị thần khác nên Phạm Nhĩ ngày càng tỏ ra kiêu căng tự phụ, dẫn tới khinh nhờn Ngọc Hoàng và yêu cầu Ngọc Hoàng nhường ngôi cho mình. Nhiều tướng lĩnh nhà trời được cử ra thi đấu đều thảm bại dưới tay Phạm Nhĩ. Sau cùng, Ngọc Hoàng phải mời Đức Phật đến thu phục. Sau khi Phạm Nhĩ thua trận, Ngọc Hoàng sai đày ông xuống trần gian làm kiếp con vật. Để giảm sức mạnh và ngăn Phạm Nhĩ quay về trời, Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông. Thế nhưng khi xuống trần, sức mạnh vô địch vẫn khiến Phạm Nhĩ trở thành Chúa tể sơn lâm, muôn loài không địch nổi, đến con người cũng phải kiêng dè. Sợ uy Chúa sơn lâm, mỗi khi vùng nào có người săn được hổ, người thợ săn được thưởng ba mươi quan tiền và cũng phải chịu đánh ba mươi hèo để vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Con hổ từ đó còn có tên là Ông ba mươi.
Một vùng khác lại kể câu chuyện cổ về cô gái giết hổ báo thù cho cha và anh. Cô giết được hổ nhưng bị thương rất nặng và không qua khỏi. Sau đó, cô được phong thần ở trên trời. Cảm động về lòng hiếu nghĩa và dũng cảm của cô, Ngọc Hoàng cho cô mỗi năm vào đúng đêm ba mươi Tết được về thăm nhà, thăm mẹ và các em, đến sáng mùng Một lại bay lên thượng giới. Vì điển tích này mà con hổ có thêm tên gọi Ông ba mươi.
Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng tên gọi Ông ba mươi bắt nguồn từ tục thờ Hổ, cúng tế Hổ vào đêm 30 Tết.
4. Tóm lại, con hổ trong đời sống ngôn ngữ và văn hóa của người Việt có thể mang đến 10 cái tên như sau: Hổ, hùm, hầm, cọp, kễnh, hếnh, khái, dần, ông ba mươi, chúa sơn lâm. So với các con vật khác trong bảng can chi, Hổ có nhiều tên gọi nhất (đứng vị trí thứ hai là con chó với 7 tên gọi: Chó, cún, cẩu, khuyển, mộc tồn, cầy, tuất). Lý giải về việc hổ có nhiều tên gọi, tôi cho rằng điều này bắt nguồn từ tâm lý e sợ, ngần ngại của con người khi phải đối diện với Chúa sơn lâm.
Đứng về quy luật ngôn ngữ học và tâm lý học mà xét, một khái niệm có nhiều cách gọi thường bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính: 1. Tầm quan trọng, thân thuộc của sự việc/hành động/ khái niệm ấy trong đời sống con người. 2. Cộng đồng dân cư cố tình sử dụng nhiều tên gọi mang sắc thái nói giảm nói tránh vì một lý do nào đó. Hiện tượng có nhiều động từ chỉ các hoạt động sống cơ bản như ăn uống, bài tiết, tình dục… là minh chứng rõ rệt cho quy luật tâm lý - ngôn ngữ ấy. Việc tìm hiểu con hổ với sự phong phú về tên gọi trong tiếng Việt cho ta một bức tranh thú vị và sống động về ngôn ngữ và văn hóa của cộng đồng.
Bình luận