Ngày 6/8/2017 tại Manila, Philippines Ngoại trưởng Trung Quốc và các nước ASEAN đã thông qua “Dự thảo khung về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (hay còn gọi là Dự thảo khung COC). Tuy nhiên gần một năm kể từ thời điểm Dự thảo khung này được thông qua, cho đến nay các bên vẫn chưa cho thấy có dấu hiệu tích cực nào về việc COC sẽ sớm trở thành một bộ luật có tính ràng buộc về mặt pháp lý.
Với Việt Nam – quốc gia có bờ biển dài chạy dọc Biển Đông đồng thời có chủ quyền đối với những hòn đảo nằm trên Biển Đông đang bị tranh chấp và chiếm giữ bất hợp pháp – tiến trình đàm phán COC luôn có ý nghĩa thiết thực và càng cần thiết hơn bao giờ hết sau khi khung của COC đã được thông qua.
Sau khi “Dự thảo khung COC” được thông qua, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị từng tuyên bố các đàm phán đáng kể về nội dung của bộ quy tắc sẽ chỉ có thể bắt đầu nếu “không có sự phá hoại lớn từ các bên bên ngoài”, một lời ám chỉ úp mở về Mỹ, nước mà Trung Quốc luôn cáo buộc là “can thiệp” vào cuộc tranh chấp.
Thực chất, căn cứ vào tình trình xây dựng COC giữa Trung Quốc và ASEAN, cũng như những gì mà Trung Quốc đã nói và làm trên thực tế, dư luận đều nhận thấy rằng: Quá trình đàm phán COC đã kéo quá dài và gắp quá nhiều khó khăn, không phải do sự can thiệp của bên thứ 3 mà do chính phía Trung Quốc.
Cụ thể là: Tuyên bố chung ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) đã kêu gọi các bên thông qua COC, nhưng mãi đến năm 2013, Trung Quốc mới đồng ý cùng với các nước ASEAN gặp nhau để “tham vấn” về COC. Tuy nhiên, do phía Trung Quốc không ngừng tiến hành các hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia xung quanh Biển Đông, đặc biệt là đối với Việt Nam và Philippines, một số thành viên ASEAN đã nhiều lần kêu gọi xúc tiến các cuộc đàm phán về COC.
Nhưng phải cho tới sau khi Tòa trọng tài ở La Haye ra phán quyết lịch sử vào ngày 12/7/2016 thì Trung Quốc mới đồng ý đẩy nhanh tiến trình “tham vấn”. Theo nhận định của các học giả quốc tế thì có hai lý do có thể giải thích tại sao Trung Quốc đồng ý làm vậy.
Thứ nhất, để cứu vãn uy tín do Phán quyết Tòa Trọng tài quốc tế đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách phi lý theo đường “lưỡi bò” của Trung Quốc trong Biển Đông, Bắc Kinh muốn đánh lạc hướng sự chỉ trích việc nước này bác bỏ phán quyết của Tòa trọng tài.
Thứ hai, mặc dù phán quyết hoàn toàn ủng hộ Philippines, Ông Duterte đã quyết định đặt nó sang một bên và ưu tiên tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc song song với việc tiến hành đàm phán song phương để giải quyết các yêu sách về chủ quyền và quyền tài phán chồng chéo của hai nước.
Việc hạ nhiệt căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc cũng có thể đã góp phần cải thiện bầu không khí trong quan hệ ASEAN-Trung Quốc. Trong nửa đầu năm 2017, các quan chức ASEAN và Trung Quốc đã gặp gỡ 3 lần để thảo luận COC. Tại cuộc họp Nhóm công tác chung ASEAN-Trung Quốc lần thứ 19 về thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (JWG-DOC) ở Bali, Indonesia, ngày 27/2/2017, hai bên đã nhất trí về phác thảo cơ bản của dự thảo khung. Sau đó đã được thảo luận tại JWG-DOC lần thứ 20 ở Siem Reap, Campuchia, vào ngày 30/3/2017.
Dự thảo này đã được sửa đổi đôi chỗ trong các cuộc họp SOM-DOC ở Quý Dương vào tháng 5/2017. Và, đến tháng 8/2017, “Dự thảo khung COC” mới được thông qua. Nhưng giá trị ràng buộc về mặt pháp lý của COC được đề xuất cho đến nay vẫn chưa được làm rõ.
Trung Quốc thì cho rằng COC vẫn là một văn kiện chính trị, trong khi đó, một số thành viên ASEAN, đặc biệt là các nước có liên quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp Biển Đông, đã đề nghị COC phải là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý và phải được đề cập một cách toàn diện và hiệu quả hơn DOC, vốn chỉ là một tuyên bố chính trị.
Cụ thể là: Ngoài các điều khoản chi tiết và cụm từ “có tính ràng buộc về mặt pháp lý”, có một vài vấn đề quan trọng không được đưa vào thỏa thuận. Một là, dự thảo khung này không đề cập đến phạm vi địa lý của COC. Hai là, trong khi văn bản này đề cập đến “các cơ chế giám sát việc thực thi”, nó lại không nói gì đến các biện pháp chế tài trong trường hợp nếu một bên cáo buộc một bên khác vi phạm bộ quy tắc này.
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác các tuyên bố và cách thức ứng xử của Philippines trong thời gian hậu phán quyết Tòa Trọng tài 12/7/2016. Bởi vì nó liên quan và có ảnh hưởng đến vai trò của Philippines khi làm chủ tịch luân phiên ASEAN 2017. Qua những gì mà dư luận quan sát và bình luận cho thấy rằng trong nội bộ chính giới và dư luận Philippines cũng đã có những nhận thức, quan điểm khác nhau về kế sách có thể áp dụng cho thời kỳ hậu Phán quyết Trọng tài.
Một là, tiếp tục đấu tranh không khoan nhượng với Trung Quốc, nhưng bằng lý lẽ ôn hòa, trên cơ sở thống nhất nhận thức về tính khả thi của Phán quyết Trọng tài trong điều kiện và bối cảnh quốc tế hiện nay để có sách lược đấu tranh thích hợp, vừa không đẩy tranh chấp lên đỉnh điểm dễ dẫn đến xung đột, vừa tiếp tục duy trì giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài nhằm sử dụng trong quá trình đàm phán và đấu tranh pháp lý với Trung Quốc trong các diễn đàn khu vực và quốc tế, chống lại các hành động bất chấp luật pháp của Trung Quốc.
Hai là, trước sức ép của Trung Quốc, vì lợi ích kinh tế, chính trị trong quan hệ với Bắc Kinh, Philippines phải xuống thang, nhân nhượng Trung Quốc bằng cách trực tiếp hay gián tiếp phớt lờ thành quả đấu tranh pháp lý của chính mình do Phán quyết Trọng tài mang lại. Nhiều ý kiến nghiêng về kế sách thứ 2.
Tuy nhiên, nếu bình tĩnh quan sát và phân tích kỹ thì có thể thấy rằng Tổng thống Rodrigo Duterte đã thể hiện một cách xuất sắc kế sách thứ 1. Do đó đã mang về 24 tỉ USD cam kết viện trợ, đầu tư từ Trung Quốc, 8,7 tỉ USD cam kết viện trợ và đầu tư từ Nhật Bản, hai kỳ phùng địch thủ ở Đông Á. Ngoại trưởng Perfecto Yasay tuyên bố rằng Philippines sẽ không nêu Phán quyết Trọng tài ra các cuộc họp của ASEAN và các hội nghị, diễn đàn liên quan năm nay với tư cách Chủ tịch luân phiên của khối cần được hiểu chính xác rằng đó chỉ là vấn đề song phương giữa Manila và Bắc Kinh, nhưng Chủ tịch ASEAN sẽ không ngăn cản các thành viên khác của khối nêu vấn đề này lên bàn hội nghị.
Như thế Bắc Kinh cũng khó nói được gì Manila, bởi Chủ tịch luân phiên ASEAN cũng cần phải tôn trọng và lắng nghe tiếng nói từ các thành viên. Thiết nghĩ đó cũng là phương cách xử lý khôn ngoan của Philippines trong quan hệ với Trung Quốc giữa bối cảnh hiện nay.
ASEAN có vai trò rất quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định, trong quá trình giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Bởi vì, các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của hầu hết các quốc gia thành viên của ASEAN đều bị vi phạm, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong Biển Đông. Trong lịch sử các thành viên của Hiệp hội ASEAN đã có nhiều đóng góp rất quan trọng cho tiến trình giải quyết các tranh chấp phức tạp này thông qua các Nghị quyết, Tuyên bố, điển hình như DOC.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, ASEAN đã có lúc bộc lộ những điểm yếu của mình về sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Thậm chí có lúc không ra được Tuyên bố chung, không có tiếng nói đồng thuận trong một số vấn đề pháp lý, chính trị liên quan đến tình hình Biển Đông. Việt Nam và Philippines cần tiếp tục vận động trên cơ sở có lý có tình, thông cảm đến hoàn cảnh của từng thành viên để có cách ứng xử thích hợp, trên cơ sở chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm chung.
Như đã phân tích ở trên, trong Hội nghị thượng đỉnh lần này có thể Philippines sẽ thể hiện thái độ “hòa dịu” hơn với Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Nhưng điều đó không có nghĩa là Philippines từ bỏ nguyên tắc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, từ bỏ trách nhiệm bảo vệ sự thượng tôn pháp luật. Vì vậy, vị thế của ASEAN sẽ không giảm đi, thậm chí có thể sẽ có tiếng nói mạnh mẽ hơn, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa Biển Đông.
Xuất phát từ chính sách đối ngoại hòa bình, nên từ trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông. Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc soạn thảo, thương lượng nội dung các quy định trong DOC. Sau khi DOC được ký, chúng ta tiếp tục nêu cao vai trò, trách nhiệm tuân thủ các cam kết trong DOC; có các bước đi thích hợp để các nước hiểu rõ lập trường của nước ta về Biển Đông, kiên trì cùng các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS); thúc đẩy thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới xây dựng COC nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Là thành viên trong ASEAN, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của mình tích cực tham gia xây dựng COC thực sự là cơ sở pháp lý hàng đầu, nhân tố quan trọng góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, đảm bảo duy trì hòa bình, ổn định, an ninh cho vùng Biển Đông nói riêng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và thế giới nói chung.
Tuy nhiên, có một số ý kiến lo ngại về quan hệ kinh tế chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian qua.Họ cho rằng quan hệ đó đã làm ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh chung của khu vực nhằm chống lại những hành động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia liên quan. Xin lưu ý rằng, trong bang giao quốc tế hiện nay, mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, nhất là giữa các quốc gia láng giềng là một xu thế tất yếu, cần thiết. Việt Nam và Trung Quốc không nằm ngoài xu thế đó.
Vì vậy, quan hệ giữa 2 nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc hoàn toàn không có liên quan gì đến sự gia tăng căng thẳng trên Biển Đông. Ngược lại, nó còn góp phần làm giảm bớt nguy cơ xung đột, chiến tranh có thể xảy ra từ những tranh chấp phức tạp do lịch sử để lại giữa các quốc gia liên quan, đặc biệt là tranh chấp về địa-chiến lược, địa- chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trong cuộc đua tranh vị trí siêu cường khu vực châu Á-Thái Bình Dương giữa 2 nước này.
Có thể không trực tiếp sử dụng Phán quyết này tại bàn đàm phán với Trung Quốc về COC. Nhưng các nội dung pháp lý mà Phán quyết đã đề cập sẽ được vận dụng để đàm phán, nhất là về phạm vi điều chỉnh , một nội dung chủ yếu, không thể không bàn dến để có được COC. Trực tiếp đề cập đến phán quyết có thể vấp phải sự phản đối của Trung Quốc và một vài nước bị Trung Quốc lôi kéo, mua chuộc. Nhưng nếu sử dụng các nội dung Phán quyết coi như là một Phụ lục của UNCLOS 1982 để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa là có thể chấp nhận được cho cả các bên, nếu các bên có tinh thần cầu thị khách quan và thượng tôn pháp luật.
Với những gì đã trình bày và phân tích ở trên, có thể nói rằng để có được một bộ Quy tắc ứng xử, được coi là một bộ Luật Biển khu vực, có lẽ vẫn còn nhiều trở ngại cần được vượt qua. Nguyên nhân chính là do có những tranh chấp phức tạp về mặt pháp lý trong việc xác lập các vùng biển và thềm lục địa xuất phát từ việc giải thích và áp dụng khác nhau các quy định của UNCLOS 1982; tranh chấp chủ quyền đối với các hải đảo trong Biển Đông.
Đặc biệt là một số thành viên khi tham gia với những động cơ chính trị khác nhau, tiêu biểu là Trung Quốc, một thành viên đã có những hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia khác xung quanh Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị đã đạt được. Trung Quốc đã và đang tìm cách trì hoãn quá trình thương thảo để tranh thủ tạo được lợi thế trong đàm phán về COC. Chừng nào yêu sách “lưỡi bò” của Trung Quốc chưa được hợp thức hóa trong việc xác lập phạm vi điều chỉnh COC thì chừng đó không thể có được COC.
Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải thực hiện bằng được chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường số một thế giới đối trọng với Hoa Kỳ. Và như vậy có thể thấy rằng cái gọi là “đã đạt được bản thảo đầu tiên của Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông” do Trung Quốc chủ động thông tin là cố ý thổi phồng, nhằm mục đích tuyên truyền, mê hoặc dư luận vì động cơ chính trị. Có chăng chỉ có thể là “đã đạt tiến triển tốt trong việc xây dựng“bộ khung COC với Trung Quốc” như phía Philppines thông báo.
Tuy nhiên, trong các nội dung đã được đề cập nói trên vẫn để ngỏ triển vọng rằng COC có thể mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. COC có tính ràng buộc pháp lý hay không và có sớm trở thành một “bộ luật” (code) đúng với tên gọi của nó hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết tâm chính trị, sự đoàn kết thống nhất của các nước ASEAN; không để cho Trung Quốc tiếp tục lợi dụng tiến trình này để che đậy các hoạt động trên thực tế, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia trong khu vực Biển Đông.