Việc lượng hóa và quy định chặt chẽ trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (viết tắt EPR) là một trong những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường 2020. Theo đó, doanh nghiệp không chỉ có trách nhiệm với sản phẩm được bán trên thị trường, mà còn phải có trách nhiệm thu hồi, xử lý, tái chế theo tỷ lệ nhất định được pháp luật quy định.
Chia sẻ với VTC News, ông Nguyễn Thi - chuyên viên chính Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường - khẳng định, việc thực hiện EPR không chỉ đơn thuần là nhà sản xuất đảm bảo nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Đây còn là con đường phát triển bền vững, mang lại những lợi ích căn bản cho doanh nghiệp.
- Những năm vừa qua, vấn đề quản lý Nhà nước liên quan trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường được thực hiện thế nào, những thiếu sót gì cần hoàn thiện, củng cố?
Luật Bảo vệ Môi trường 2005 (số 52/2005/QH11) và 2014 (số 55/2014/QH13) mới dừng ở quy định nhà sản xuất phải thu hồi sản phẩm thải bỏ, chưa quy định con số cụ thể phải thu gom, xử lý, tái chế và phương pháp tái chế.
Thời gian qua, một số doanh nghiệp chưa thực hiện hiệu quả trách nhiệm thu gom sản phẩm thải bỏ theo quy định của pháp luật. Việc thu gom thực tế được doanh nghiệp tận dụng để quảng bá sản phẩm hoặc thúc đẩy tiêu dùng, thay vì được nhìn nhận như trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.
Đứng trước thực trạng quy định thu gom sản phẩm thải bỏ không được doanh nghiệp thực hiện hiệu quả, Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đưa ra quy định chặt chẽ hơn. Nhà sản xuất phải thu hồi sản phẩm thải bỏ theo tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc. Chính phủ quy định tỷ lệ mà doanh nghiệp phải thu hồi tính theo sản lượng doanh nghiệp đưa ra thị trường.
"EPR thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững: ít sử dụng nguyên liệu tự nhiên, kéo dài vòng đời sử dụng sản phẩm và tái chế những sản phẩm thải bỏ ra môi trường sau khi sử dụng".
Ông Nguyễn Thi
Đơn cử, công ty sản xuất nước giải khát đưa ra thị trường 100 lon sản phẩm thì theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP, họ phải thu gom để tái chế 22 lon, tương đương 22% theo tỷ lệ tái chế bắt buộc. Còn theo quy cách tái chế bắt buộc, 22 lon đó phải tái chế thu lại tối thiểu 8,8 lon, tương đương 40% tổng số lon mang đi tái chế, tạo ra các phôi nhôm hoặc các sản phẩm khác.
Luật quy định rõ về phương pháp thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, theo đó, đối với trách nhiệm tái chế, doanh nghiệp được tự tổ chức tái chế hoặc đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam để hoàn thành trách nhiệm của mình.
Đối với trách nhiệm xử lý chất thải, doanh nghiệp phải đóng góp tài chính vào Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam để hoàn thành trách nhiệm của mình. Đó là những vấn đề Luật Bảo vệ Môi trường 2020 đã khắc phục được so với luật năm 2005 và 2014.
Hiện nay, quy định về EPR đang được doanh nghiệp thực hiện. Đối với những sản phẩm khó thu gom, tái chế, chứa chất độc hại xả ra môi trường, doanh nghiệp phải đóng góp vào quỹ bảo vệ môi trường để hỗ trợ các hoạt động thu gom, xử lý chất thải. Hiện nay, các doanh nghiệp đã đóng tiền vào quỹ.
- Các chính sách liên quan EPR hiện tại cần được xây dựng thế nào để thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào thị trường tái chế, vốn được cho là tốn kém, không có khả năng sinh lợi nhuận?
Các doanh nghiệp sản xuất bao bì có doanh thu sản xuất trong nước dưới 30 tỷ đồng và nhập khẩu dưới 20 tỷ đồng không thực hiện EPR. Về cơ bản, EPR không đòi hỏi doanh nghiệp nhỏ thực hiện, mà tập trung những doanh nghiệp sản xuất bao bì đưa ra thị trường số lượng sản phẩm chiếm tỷ lệ lớn.
Thực hiện EPR là doanh nghiệp đã thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền. Hoạt động này còn đem lại lợi ích cho doanh nghiệp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc thúc đẩy hoạt động tái chế chất thải, tạo ra lợi nhuận, nguồn vật liệu ổn định phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình.
Thực hiện EPR không phải yêu cầu doanh nghiệp phải chi tiền, mà đây là nghĩa vụ phải thực hiện theo Luật Bảo vệ Môi trường 2020. Đó là cam kết kinh doanh đi liền trách nhiệm bảo vệ môi trường và việc thực hiện trách nhiệm ấy hoàn toàn mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Đó là nguồn nguyên liệu cho sản xuất và bước đi quan trọng, cần thiết để thực hiện kinh tế tuần hoàn - xu hướng đang phát triển hiện nay.
Bên trong nhà máy tái chế của Heilig Group.
- Dịch COVID-19 có khiến các doanh nghiệp Việt Nam chậm trễ hơn trong việc thực hiện EPR?
Dịch COVID-19 khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, trong đó nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thậm chí phải dừng hoạt động. Tuy nhiên, đây là khó khăn chung của các doanh nghiệp, không phải vấn đề của cá nhân, tổ chức đơn lẻ nào.
Do dịch bệnh, tổng lượng sản phẩm đưa ra môi trường của doanh nghiệp sẽ thấp hơn, việc thực hiện EPR cũng ở mức thấp hơn. Đơn cử, thay vì đưa ra thị trường 100 sản phẩm, doanh nghiệp chỉ sản xuất 10 sản phẩm thôi. EPR vì thế cũng giảm theo.
EPR được tính trên tổng lượng sản phẩm hàng hóa đưa ra thị trường, tức là đưa ra càng nhiều, trách nhiệm phải càng lớn. Theo đó, doanh nghiệp cân nhắc để đưa lượng sản phẩm, bao bì ra thị trường trong bối cảnh của đại dịch để bảo đảm sự cân bằng lợi ích.. Về cơ bản, doanh nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều xét trên tỷ lệ tương đối so với lượng sản phẩm, bao bì đưa ra thị trường.
Ngoài ra, không thể lấy lý do dịch bệnh để từ chối thực hiện EPR, cũng như không thể nói ốm thì không quét nhà, mệt thì không giặt quần áo. Không thể vì dịch bệnh mà khước từ trách nhiệm bảo vệ môi trường. Đó là nguyên tắc không đánh đổi môi trường lấy kinh tế.
Ngoài ra, Nhà nước có cơ chế chính sách, nhiều gói hỗ trợ đã được triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn do dịch COVID-19, nhưng bản thân doanh nghiệp phải có nghĩa vụ với môi trường. Chúng tôi không có quan điểm bỏ qua trách nhiệm đối với môi trường như là một sự ưu đãi, hỗ trợ cho bất cứ hoạt động nào.
Ngành công nghiệp tái chế còn non trẻ với nhiều nước trên thế giới. (Ảnh: EcoEnclose).
- Yêu cầu doanh nghiệp tái chế, nhưng chúng ta cũng cần tìm đầu ra cho thị trường tái chế, thay vì chỉ khuyến khích phát triển tái chế một chiều. Những sản phẩm tái chế mà không có thị trường tiêu thụ thì bán cho ai, bán đi đâu?
Đây là vấn đề cần được quan tâm. Chúng ta không thể chỉ quan tâm đến đầu vào, tức là khuyến khích tái chế, nhưng lại bỏ ngỏ thị trường đầu ra. Nếu chỉ có cung mà không có cầu (hoặc ngược lại), thị trường tái chế sẽ ách tắc. Thực tiễn cho thấy, thị trường tái chế ở Việt Nam đang phát triển mạnh, với các biểu hiện sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp cam kết sử dụng một tỷ lệ phần trăm tái chế trong các sản phẩm của họ. Đơn cử, những doanh nghiệp đi đầu cam kết sử dụng nhựa tái chế lên đến 50% trong sản phẩm của mình. Khi đưa ra thị trường những sản phẩm như vậy, doanh nghiệp phải cân nhắc điều chỉnh lợi nhuận. Các doanh nghiệp làm điều này để thể hiện trách nhiệm trong kinh doanh cũng như tuân thủ các cam kết chung toàn cầu.
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp cam kết sử dụng nguyên liệu tái chế thì mặt bằng giá cả sẽ tương đương nhau và mang tính ổn định hơn. Đây là cam kết toàn cầu, chứ không chỉ ở Việt Nam.
Theo Chỉ thị 33/CT-TTg năm 2020 về về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa do Thủ tướng ban hành, Thủ tướng đã chỉ thị Bộ Công Thương nghiên cứu quy định về tỷ lệ sử dụng nhựa tái chế bắt buộc sử dụng trong sản phẩm. Tuy nhiên, Bộ đang trong quá trình nghiên cứu nên chưa ban hành con số cụ thể.
Ngoài ra, Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Y tế phải có quy định về quy chuẩn kỹ thuật với các sản phẩm nhựa tái chế để sử dụng cho thực phẩm. Đây là quy định sẽ mở đường cho các doanh nghiệp tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế.
Luật Bảo vệ Môi trường 2020 cũng đã quy định về nhãn sinh thái, các ưu đãi, hỗ trợ bảo vệ môi trường, mua sắm xanh để tạo thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm sử dụng vật liệu tái chế; thúc đẩy tiêu dùng sản phẩm tái chế..
- Việc doanh nghiệp thực hiện EPR có tác động thế nào đến tiến trình thực hiện kinh tế tuần hoàn?
Các doanh nghiệp Việt Nam đang được khuyến khích thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn. Đây là chính sách khuyến khích, chưa phải bắt buộc. Doanh nghiệp sẽ tự lập kế hoạch tự tổ chức thực hiện để áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, điều này xuất phát lợi ích nội sinh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, EPR là trách nhiệm bắt buộc. Đây chính là yếu tố thúc đẩy áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn ở các doanh nghiệp và ở Việt Nam, bởi EPR không chỉ có mục tiêu là hình thành nguồn lực để làm sạch môi trường thông qua việc thu gom, xử lý sản phẩm thải bỏ mà EPR còn có mục tiêu cao hơn đó là tác động đến thói quen sản xuất, tiêu dùng, buộc các nhà sản xuất phải thay đổi thiết kế đối với sản phẩm để sử dụng nguyên vật liệu thân thiện với môi trường, kéo dài vòng đời sản phẩm, dễ thu gom, dễ tái sử dụng, dễ tái chế… để giảm bớt trách nhiệm EPR.
Do đó, EPR là bắt buộc, nhưng nó thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững: ít sử dụng nguyên liệu tự nhiên, kéo dài vòng đời sử dụng sản phẩm và tái chế những sản phẩm thải bỏ ra môi trường sau khi sử dụng. Nếu doanh nghiệp đáp ứng EPR, về cơ bản họ sẽ thực hiện được kinh tế tuần hoàn và thu lại lợi ích.
Một số doanh nghiệp, thương hiệu tham gia Liên minh tái chế bao bì Việt Nam (PRO Vietnam).
- Chính sách của Việt Nam về EPR còn điểm gì cần thay đổi, hoàn thiện?
EPR mới được thực hiện từ tháng 1/2022, khi Nghị định 08/2022/NĐ-CP có hiệu lực. Lộ trình các doanh nghiệp thực hiện tái chế sản phẩm - một trong những cốt lõi của EPR, sớm nhất đến năm 2024 mới bắt đầu. Do chưa áp dụng thực tiễn, nên chưa thể có đánh giá, tổng kết để sửa đổi bổ sung. Với trách nhiệm tái chế của doanh nghiệp, do việc thực hiện chưa đầy đủ nên chưa tổng kết được.
Tuy nhiên, cần có những quy định rõ ràng trong việc thực hiện kiểm tra, xác định doanh nghiệp nào phải thực hiện EPR. Nhà nước cần chính sách để doanh nghiệp tự giác thực hiện. Nếu doanh nghiệp không tự giác, phải có chính sách nhằm rà soát, xác định các doanh nghiệp chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp không tự nguyện đóng tiền, có thể áp dụng cơ chế thuế, qua đó thúc đẩy thực hiện EPR nhanh chóng, thay vì đợi doanh nghiệp tự nguyện dẫn đến hiệu quả thu thấp.
Bên cạnh đó, hiện nay, nhiều doanh nghiệp đưa sản phẩm ra thị trường, đưa ra bao nhiêu thực hiện EPR bấy nhiêu. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp đã có động thái thực hiện thu hồi sản phẩm và xử lý theo quy định, do đó cần quy định để khấu trừ trách nhiệm của họ.
Đó là 3 vấn đề lớn mà chúng tôi đang xem xét để chỉnh sửa, nghiên cứu trong thời gian tới.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!
Bình luận